Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vở cải lượng: Cuộc Đời Liên Hoa Hòa Thượng

18/03/201411:02(Xem: 9862)
Vở cải lượng: Cuộc Đời Liên Hoa Hòa Thượng

chuyentinh-lienhoahoathuong2

Vở Cải Lương Phật Giáo :

CUỘC ĐỜI LIÊN HOA HÒA THƯỢNG

Thật ái ngại khi với tư cách một tác giả lại viết giới thiệu về một tác phẫm do chính mình chuyễn thể. Nhưng trước tấm lòng và sự tận lực cống hiến của êkíp thực hiện nhằm kịp thời dâng lên đức Từ Phụ nhân ngày Đại Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2558 (2014), nên sau thời gian đắn đo khá lâu đã thôi thúc, đi đến quyết định phải có đôi dòng giới thiệu đến chư tăng ni và Phật tử khắp nơi vở cải lương đặc biệt này.

ht-nhudien2

Vở Cài Lượng Phật giáo “Cuộc Đời Liên Hoa Hòa thượng”(CĐLHHT), được chuyễ thể từ tác phẫm “Chuyện Tình Liên Hoa Hòa Thượng”của Sa môn Thích Như Điễn. (ảnh bên).

Nội dung nói về cuộc đời Ngài Thiệt Thành Liễu Đạt (1763 – 1823), một danh tăng của PGVN đầu thế kỷ XVIII. Từ những năm 1744 – 1821, khi còn trụ trì chùa Từ Ân và Khải Tường ở Gia Định. Thời gian (1789 – 1902) Nguyễn Ánh (sau là Vua Gia Long) chú trọng việc trung hưng, tổ chức hành chánh và tiến hành xây dựng thành Gia Định, chủa Khài Tường chính là nơi cư ngụ tạm thời cho Hoàng hậu và cách cung phi, chùa Từ Ân dành cho vua và các quan tùy tùng. Chính tại chủa Khài Tường này, năm Tân Hợi (1791) Hoàng Tử Nguyễn Phúc Đảm (sau là vua Minh mạng) được chào đời.

Chính do nhờ công lao đó nên khi gầy dựng đế nghiệp ở Phú Xuân, năm Gia Long thứ 16 (Đinh Sữu -1817) vua Gia Long thể hiện sự biết ơn của mình bằng cách vời Ngài ra kinh đô nhân chức Tăng Cang và trụ trì quốc tự Linh Mụ. Năm Canh Thìn (1820) vua Gia Long băng hà, Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi lấy hiệu là Minh Mạng , vì mến phục tài và đức của Ngài nên phong tặng cho danh hiệu “Hòa ThượngLiên Hoa”. Trong thời gian nhậm chức Tăng Cang và thuyết pháp (Mỗi tháng tám ngày), Hoàng Cô (Chị ruột của vua Gia Long ) tức Thái Trưởng Công Chúa Long Thành (Nguyễn Thị Ngọc Anh), một trong rất nhiểu đệ tử trong hoàng gia thọ Bồ tát giới của Ngài, đã rất quan tâm và để ý, nhen nhóm một khối tình đơn phương. Ngài nhiều lần khuyến giải Hoàng cô nhưng đáp lại vẫn là những cử chỉ thương thầm nhớ trộm khiến Ngài thêm lo âu. Đã nhiều lần Ngài đệ trình nguyện vọng xin được trở lại chùa xưa đất tổ trong Gia Định nhưng vẫn không được đáp ứng. Cho đến khi hay tin từ các viên quan Gia Định ra chầu vua cho hay Hòa Thượng Linh Nhạc- Phật Ý (1725 – 1821) đã viên tịch từ hai năm trước, ước nguyện chính đáng của Ngài mới được toại ý. Bấy giờ là năm Quý Mùi (1823).

Khi đã về lại chùa xưa ở Gia Định chưa bao lâu thì vào một buổi sáng tháng 10 cùng năm, đã nghe tin Hoàng Cô sắp vào chùa Từ Ân và Khải Tường với lý do cúng dường trai tăng. Sau hai ngày ở chùa Từ Ân, mỗi sáng sớm sau thồi công phu khuya, Ngài phài đến vấn an Hoàng Cô, đến ngày thứ ba Ngài ra đi để lại bức thư đăn dò thị giả Mật Đĩnh mọi điều rồi đến chùa Đại Giác ở Biên hòa nhập thất. Rồi Hoàng Cô cũng biết nới ấy và tìm đếm với tâm trạng suy sụp hoàn toàn. Sao nhiều lời khẩn khoản xin được gặp mặt bị từ chối, Hoàng Cô chỉa cần xin cho hôn nhẹ bàn tay rồi ra về. Ngài nghĩ nếu chỉ có thế để tình hình tốt hơn nên không ngần ngại đưa bàn tay từ trong tịnh thất ra cho Hoàng Cô hôn, nhưng nào ngờ sau động thái tưởng như nhỏ nhặt ấy lại biến tâm trạng Hoàng Cô phấn chấn thêm hơn và xin tiếp tục ở lại chùa Đại Giác để “sám hối” và để được…hầu thầy! Trước diễn biến nặng nề như vậy, ngay đêm đó Ngài đã tự thiêu nhục thân của mình ngay trong tịnh thất để chấm dứt mối tình nghiệt oan trong nghiệp dĩ. Không lâu sau đó nữa, Hoàng Cô đã quyên sinh bằng liều độc dược để được theo Ngài. Đó là ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823).

lien hoa hoa thuong

Trong quyển CTLHHT, tác giả đã sử dụng khung sườn là lịch sử tu học và hóa đạo của Ngài Thiệt Thành Liễu Đạt. Lồng vào đó là những chi tiết hổ trợ cho ý tưởng chính. Điểm đặc sắc nhất người đọc dễ nhận ra là trong quá trình tuyết giảng ở nội cung, Ngài Thiệt Thành Liễu Đạt đã giảng những kinh gì, có liên quan gì đến giới nữ trong cung và tình hình cai trị đất nước của triều Nguyễn buổi ban đầu ấy.v…v…Qua đó, người đọc thấy được sự tu học của cung hoàng và giá trị nhận thức Phật pháp của họ ra sao.

Cho nên tác giả đã đưa ra nhiều chủ đề Phật pháp mà có thể khi ấy Ngài Thiệt Thành đã giảng trong nội cung, đó là nhữing hệ tư tưởng trong kinh Duy Ma Cật, Thắng Man, Kim Cang, Nhân Vương Hộ Quốc.v…v…Dàn trãi trong quyễn truyện này cón có rất nhiều tư liệu và ý nghĩa trong giới luật, Phật học cũng được tác giả khéo léo vận hành và lý giài rất nhuẩn nhuyễn. Những chi chi tiết ấy tưởng chửng không ăn nhập gì đến cuộc đời Liên Hoa Hòa Thượng nhưng nó rất ảnh hưởng trong tiết tầu văn học nghệ thuật, hổ trợ nhiều cho ý tưởng xây dựng nhân vật. Thí dụ như khi trở về chùa Khài Tường ở Gia Định, Ngài và HT Viên Quang ngồi nhớ chuyện xưa qua bài thơ “Nhớ Chùa” được lồng vào khá hợp tình hợp cảnh, trong khi bài thơ ấy là của cố HT Thích Mãn Giác (1929 – 2006).

lien hoa hoa thuong 2

Truyện CĐTLHHT chủ đích nói về hành trạng tu học và hóa đạo của Hòa thượng Liên Hoa vì vậy mới có những hư cấu cần thiết và vận dụng một vài mẫu truyền khẩu trong dân gian, trong thiền học như trên. Hoàng cô trong truyện này vẫn chỉ là điểm nhấn, hay nói một cách khác là một thách thức lớn trong cuộc đời của Ngài. Nếu không là giới quan tâm đến phật học thì ở mặt khác nhân vật được chú ý nhất không phải là HT Liên Hoa mà chính là Hoàng Cô. Đó là chuyện rất dễ hiểu.

Cho nên, trong CĐLHHT chúng ta sẽ bắt gặp một Hoàng cô (không có tên) và một Thái trưởng Công Chúa Long Thành (có thật trong lịch sử), hai nhân vật này lúc nào cũng xuất hiện bên nhau trong quá trình tìm hiểu Phật pháp, dù trong sử liệu lịch sử cả hai chỉ là một. Vì thế khi trong diễn biến tự sự, nhất là trường đoạn sau cùng mang tính nhạy cảm cao (bây giờ là phần của truyền khẩu dân gian) thì chỉ có mỗi Hoàng Cô.

Khi chuyển thể thành một vở cải lương, cần có sự chọn lọc để tinh gọn lại nội dung và phải có đường dây câu chuyện mạch lạp nhưng tất cả những tình tiết đó cũng được vận dụng triệt để. Vì thế mà phài mất hơn một năm trời bàn chuyển thể mới được hoàn thành. Hạn chế của loại hình nghệ thuật cải lương không cho phép chúng ta thực hiện những phân cảnh hay trường đoạc của bối cảnh lịch sử như mong muốn, nhưng với những mốc lịch sử và sự thật của nó vẫn được trân trọng đúng mực. Qua đây góp phần tôn xưng hình tượng một danh tăng của PGVN trong điều kiện có thể.

Qua đây, tác giả chuyển thể xin chân thành cảm ơn Hòa thượng Thích Như Điển, NSUT Út Bạch Lan, Nghệ Sĩ Tô Châu cùng các nghệ sĩ khác và đặc biệt đạo diễn Ngọc Hùng, đã giúp hoàn thành và đưa tác phẫm này đến với công chúng đúng với tâm nguyện trước ngày Đản sanh Đức Bổn Sư Thich Ca Mâu Ni Phật và cũng là ngày đại lễ Vesk Liên Hiệp Quốc PL 2558.

Xin được giới thiệu.

Vở đã được post lên You Tube với từ khóa “Chuyện Tình Liên Hoa Hòa thượng”. Mời xem ở đây:
http://quangduc.com/a51888/vo-cai-luong-chuyen-tinh-lien-hoa-hoa-thuong

DƯƠNG KINH THÀNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/11/2010(Xem: 8797)
Hôm nay chúng tôi được duyên lành về đây, trước hết thăm chư Tăng trong mùa an cư, sau có vài lời muốn nói cùng chư Tăng Ni. Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ của Tăng Ni, nên trọn đời lúc nào tôi cũng canh cánh trong lòng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạo duyên tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến lên và tiến đúng đường lối của Phật đã dạy.
20/11/2010(Xem: 8543)
Khái niệm về "Tám mối lo toan thế tục" tiếng Phạnlà "Astalokadharma",tương đối ít thấy đề cập trong Phậtgiáo Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên và Nhật bản, nhưng thường được triển khai trongPhật giáo Ấn độ và Tây tạng. Vậy "Támmối lo toan thế tục" là gì ? Đó là những tình huống, những mối bận tâmvà lo lắng làm xao lãng tâm thức và sự sinh hoạt của người tu tập. Những mối bậntâm đó được phân chia thành bốn cặp :
19/11/2010(Xem: 8386)
Nếu bạn hỏi ta tham dự vào việc lắng nghe, suy niệm và thiền định về giáo lý như thế nào thì câu trả lời là ta cần làm những điều đó không chỉ vì lợi ích của ta, nhưng bởi lợi lạc của tất cả chúng sinh. Như vậy bạn phát triển Bồ Đề tâm ra sao? Trước hết bạn thiền định về lòng từ ái, và sau đó là lòng bi mẫn. Làm thế nào bạn biết là mình có Bồ Đề tâm hay không? Người không phân biệt giữa bạn và thù, người ấy có Bồ Đề tâm. Điều này rất khó khăn đối với người mới bắt đầu, bạn nghĩ thế phải không? Vậy tại sao khó khăn? Từ vô thủy chúng ta đã bám chấp vào ý niệm sai lầm của cái tôi và đã lang thang suốt trong sinh tử.
19/11/2010(Xem: 9838)
Giáo lý này được đưa ra để làm lời nói đầu cho tập sách mỏng về Phật Ngọc và Đại Bảo Tháp Từ bi Thế giới được xây dựng tại Bendigo, Úc châu, theo lời khẩn cầu của ông Ian Green.
18/11/2010(Xem: 11319)
Tôi vừa từ Kuala Lumpur trở về Singapore tối nay. Tôi đã tới đó để dự một lễ Mani Puja trong 5 ngày do Trung tâm Phật giáo Ratnashri Malaysia tổ chức. Đây là trung tâm thuộc Dòng Truyền thừa Drikung Kagyu và có nối kết mật thiết với Đạo sư Drubwang Konchok Norbu Rinpoche. (1) Trong khóa nhập thất này, tôi đã cố gắng để được gặp riêng Đại sư Garchen Rinpoche. Rinpoche đã xác nhận rằng Khóa Nhập thất hàng năm Trì tụng 100 Triệu Thần chú Mani được tiếp tục để làm lợi lạc tất cả những bà mẹ chúng sinh chính là ước nguyện vĩ đại nhất của Đạo sư Drubwang Rinpoche. Rinpoche khuyên rằng chúng ta có thể thành tâm thỉnh cầu Tu viện KMSPKS (Tu viện Kong Meng San Phor Kark See tại Singapore) tiếp tục khóa nhập thất bởi điều này cũng làm lợi lạc cho Tu viện. Rinpoche cũng đề cập rằng các Đạo sư Tâm linh Drikung Kagyu sẽ luôn luôn hết sức quan tâm tới Khóa Nhập Thất Mani bởi nó rất lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
18/11/2010(Xem: 12578)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
17/11/2010(Xem: 11405)
Còn định nghiệp là sao? Ðịnh nghiệp mới xem bề ngoài cũng có phần tương tự như định mệnh. Ðã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không quả, hay có quả mà không nhân. Ðó là một quy luật đương nhiên. Tuy nhiên luật nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Do vậy dù ở trường hợp thụ quả báo có lúc khắt khe khó cưỡng lại được, nhưng tự bản chất đã do tự con người thì nó không phải là cái gì cứng rắn bất di dịch; trái lại nó vẫn là pháp vô thường chuyển biến và chuyển biến theo ý chí mạnh hay yếu, tốt hay xấu của con người.
16/11/2010(Xem: 8352)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
16/11/2010(Xem: 7449)
Sống là làm cho mình càng ngày càng hoàn thiện hơn, theo đúng với sự tiến hóa của con người và thế giới. Tự hoàn thiện là tránh làm những cái xấu và trau dồi thêm những cái tốt. Trau dồi, bồi dưỡng, trồng trọt cũng là nghĩa chữ văn hóa (culture) trong tiếng phương Tây. Bất kỳ con người nào cũng muốn cuộc sống mình tiến bộ theo chiều hướng đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Không ai muốn điều ngược lại.
15/11/2010(Xem: 8493)
Nhiều thuật ngữ trong Đạo Pháp mang tính cách thật căn bản chẳng hạn như Giác ngộ hay sựQuán thấy sáng suốt(Bodhi),Vô thường(Anitya), sự Tương liêngiữamọi hiện tượng hay Lý duyên khởi(Pratityamutpada), v.v... Trong số này cómột thuật ngữ khá quan trọng là Khổ đau(Duhkha), tuy nhiên thuật ngữ này tươngđối ít được tìm hiểu cặn kẽ, có lẽ vì khổ đau là những gì quá hiển nhiên ai cũngbiết. Thật vậy tất cả chúng sinh đều gặp khó khăn nhiều hay ít không có một ngoạilệ nào cả.Lạm Bàn Về Khái Niệm « Khổ Đau » Trong Phật Giáo - Hoang Phong
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]