Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhận diện và thay thế

13/03/201408:36(Xem: 7829)
Nhận diện và thay thế

Sakya_Muni_67
NHẬN DIỆN VÀ THAY THẾ


Thích Thái Hòa


Ta nhìn xuyên suốt lịch sử phát triển của xã hội loài người, thì không có bất cứ một xã hội nào, mà chính quyền không chủ trương và nỗ lực trừ diệt nạn trộm cắp, nhưng mà nạn trộm cắp thì không có xã hội nào diệt sạch. Xã hội kém phát triển và kém văn minh, thì việc trộm cắp cũng xảy ra theo cách kém phát triển và kém văn minh như xã hội ấy. Và nếu xã hội phát triển và văn minh, thì nạn trộm cắp cũng xảy ra theo cách của một xã hội phát triển và văn minh ấy. Và tất cả chính quyền trong các xã hội ấy, đều có những luật pháp để bài trừ nạn trộm cắp, nhưng nạn trộm cắp vẫn tồn tại theo sự tồn tại của xã hội mà chính quyền ấy đang điều hành.

Tại sao? Vì chính quyền lãnh đạo của những xã hội ấy, chỉ nỗ lực trừ diệt nạn trộm cắp của xã hội, mà không nỗ lực diệt trừ lòng tham nơi con người. Chính lòng tham của con người mới tạo ra nạn trộm cắp của xã hội chứ? Nếu ta chỉ nỗ lực diệt trừ nạn trộm cắp ở nơi xã hội, mà không nỗ lực diệt trừ lòng tham nơi con người, thì chẳng khác nào một người nhổ cỏ cú. Ngày nay ta nhổ nó, ngày mai nó lại tiếp tục lên lại mạnh hơn. Vì gốc của cỏ cú chưa bị ta đoạn tận. Cũng vậy, lòng tham của con người là nguyên nhân phát sinh mọi sự trộm cắp và tệ nạn xã hội. Ta chỉ diệt trừ nạn trộm cắp, mà không biết diệt trừ nguyên nhân của nạn trộm cắp, thì thử hỏi ta diệt trừ nạn trộm cắp đến khi nào mới hết?

Nạn trộm cắp phát sinh từ lòng tham của con người, mà điều kiện để cho lòng tham của con người bám vào để biểu hiện thì vô số. Xã hội càng văn minh vật chất, thì lòng tham của con người lại càng tăng trưởng. Xã hội càng văn minh khoa học kỹ thuật, thì lòng tham con người lại càng tinh vi và hành động trộm cắp của con người lại càng tinh xảo và điêu luyện. Vì sao? Vì những văn minh ấy đều dựa vào lòng tham của con người để phát triển và phát triển để gợi cảm và kích thích lòng tham của con người. Và cho dù xã hội văn minh vật chất đến đâu cũng không thể nào đáp ứng được lòng tham của con người.

Và lòng tham của con người không phải chỉ là những yếu tố vật chất, mà còn tham lam vào những yếu tố phi vật chất nữa. Lòng tham của con người không phải chỉ bám vào những yếu tố vật chất để thỏa mãn những lạc thú nơi trần thế, mà còn bám víu vào những yếu tố phi vật chất để hy vọng được hưởng thụ những lạc thú thuộc về niềm tin hay tâm thức ở nơi các thế giới của chư thiên nữa. Vì vậy ở trong xã hội con người có những cuộc bạo loạn không phải chỉ đơn thuần là những thèm khát vật chất mà dẫn sinh từ những thèm khát tâm linh và phụng thờ tín ngưỡng.

Vì vậy, mọi sự hiểu biết của con người mà dựa vào lòng tham để hiểu, thì rốt cuộc con người chẳng có sự hiểu biết nào cả, ngay cả lòng tham ở nơi chính họ. Và mọi sự học hành của con người, nếu dựa vào lòng tham để phát triển, thì càng học, con người lại càng tham lam và càng tham lam con người lại càng ích kỷ và kiêu căng. Càng ích kỷ và kiêu căng con người lại càng tệ hại và ngu muội. Càng ngu muội, con người lại càng bất mãn với chính nó. Càng bất mãn với chính nó, con người càng tạo ra hận thù và hành động một cách mù quáng.

Cho nên, lòng tham lam, sự giận dữ và tâm mù quáng của con người là gốc rễ làm cho mọi bất công của xã hội phát sinh, mọi tệ nạn của xã hội từ đó mà hiện khởi và mọi bất hạnh, khổ đau của con người cũng từ đó mà sinh ra. Ta học tập mà để cho lòng tham phát triển trong ta là sự học tập của ta đã bị chệch hướng. Nên, càng học là càng sai; càng học lại càng ngu muội và càng học là càng không biết gì.

Vì vậy, ta cần phải tạo dựng hay thiết lập một sự học tập chính đáng. Sự học tập chính đáng là sự học tập không dựa vào lòng tham mà dựa vào tâm ly tham. Và muốn ly tham, trước hết là ta phải biết nhận diện về lòng tham đang có mặt trong ta, ta phải biết nhận diện nó như là chính nó và nó được sinh khởi từ những yếu tố không phải là nó. Ta phải biết nhận diện những gì nguy hiểm do lòng tham và những yếu tố tạo nên lòng tham đem lại cho ta và xã hội của ta.

Do đó, ta không những không làm bạn với lòng tham, không sống chung với lòng tham và không đi theo với lòng tham, mà còn không làm bạn với những yếu tố tạo nên sự sinh khởi cho lòng tham, không sống chung với những yếu tố tạo nên lòng tham và không đi theo với những yếu tố tạo nên lòng tham nữa. Ta phải biết thay lòng tham của ta bằng tình thương chân thực, hay bằng sự xả ly tài sản, xả ly sắc dục, xả ly danh vọng và quyền lực. Ta phải biết ăn mặc và ngủ nghỉ vừa đủ để thích ứng với đời sống xả ly.

Nếu lòng tham của ta được nhận diện và thay thế như vậy, tức là chính ta đã tích cực góp phần vào việc diệt trừ tận gốc mọi tệ nạn xã hội, mà trong đó có cả tệ nạn trộm cắp. Ta có thể đóng góp vào sự xây dựng và phát triển xã hội tốt đẹp bằng chính tâm ly tham của mỗi chúng ta. Và, nếu ta chỉ nỗ lực diệt trừ tệ nạn trộm cắp của xã hội, nhưng chưa có phương pháp nào để diệt trừ lòng tham nơi ta và nơi mọi người, thì mọi tệ nạn xã hội vẫn nằm nguyên trạng mà những hành động diệt trừ tệ nạn của ta chỉ là hành động của những kẻ cầm lửa đi trước gió hay là hành động của những người đi bắt rắn ở đầu đuôi!

Trích tác phẩm: Mở Lớn Con Đường.
https://www.facebook.com/thuviencophap
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 4996)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4256)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5122)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5339)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8130)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6259)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5704)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4337)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9283)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5817)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]