Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Buông đao thành Phật

13/12/201310:32(Xem: 9057)
Buông đao thành Phật
buong-dao-thanh-Phat
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”. Đồ tể là người làm nghề giết mổ, chuyên giết mổ súc vật; trong khi đó, một trong những trọng giới của nhà Phật là giới sát. Người Phật tử đã không được phép hại mạng sống của chúng sanh, lẽ nào người sống bằng nghề giết mổ, cả đời lấy đi mạng sống của biết bao sinh vật, chỉ cần buông đao xuống là đã có thể thành Phật, lại còn thành Phật ngay lập tức? Tất nhiên, người đọc cũng hiểu, thành ngữ này có tính thậm xưng, nói quá hơn sự thật, để nhắc nhở rằng mọi người đều có Phật tính; chỉ cần nhận thức được hành vi mang nghiệp nặng của mình, quyết tâm từ bỏ, thì có thể thành Phật. Kinh điển nhà Phật có đề cập trường hợp phạm ác nghiệp nặng nề nhưng khi biết hối cải thì đã đạt được thánh quả.

Trường hợp thứ nhất được nêu trong kinh Angulimala, bản kinh số 86 thuộc Trung bộ, nói về một sát thủ nổi tiếng có biệt danh là Daku Angulimala (Kẻ đeo xâu chuỗi bằng ngón tay người). Dưới thời Đức Phật, ở xứ Kosala của vua Pasenadi, một dạo, có một kẻ chuyên giết người để chặt lấy một ngón tay, sau đó xâu các ngón tay ấy vào thành một chuỗi đeo ở cổ. Người này hoạt động đơn độc, không cướp của, nhưng có sức mạnh và khéo lẩn tránh. Hành vi của người này khiến dân chúng khắp cõi Kosala đều hoang mang. Dân chúng xứ Kosala cầu xin nhà vua truy lùng để trừ họa hại cho dân nhưng quan quân mấy lần vây bắt đương sự mà không thành công. 
buong-dao-thanh-Phat

Theo kinh Bổn sanh thì Đức Phật quán sát biết người này trong các tiền kiếp cũng từng có quan hệ thân tộc với Ngài và vốn là người có thiện tâm, chẳng qua vì có tà kiến rằng cần phải kiếm đủ 1.000 ngón tay để làm lễ vật dâng người dạy thần thông cho mình thì thần thông ấy mới có hiệu nghiệm nên mới trở nên tàn ác. Đức Phật quyết tâm thu phục Angulimala, vừa giải thoát tà kiến cho người này, vừa tiêu trừ họa hại cho dân chúng. Lúc ấy, Angulimala đã thu thập đủ 999 ngón tay và đang bị truy bắt ráo riết. Lệnh truy bắt Angulimala đến tai một người là phu nhân của một vị đại thần trong triều của Pasenadi; tuy không biết Angulimala là ai nhưng vị phu nhân này đoán rằng đó chính là con trai của mình, vốn có tên là Ahimsaka (Kẻ không gây hại), cái tên đã được đặt nhằm giải trừ một điềm báo khi con bà mới sanh rằng đứa trẻ lớn lên sẽ trở thành một kẻ giết người không gớm tay. 

Cũng theo kinh Bổn sanh thì người con này đã được nuôi dạy rất cẩn thận để trở thành người hiền, nhưng khi trưởng thành, lại được gửi đến cách nhà vài trăm dặm để theo học một vị thầy nổi tiếng đương thời, và lập tức trở thành sát thủ ngay sau khi rời khỏi nhà thầy nên gia đình không biết về hành vi tàn ác của người con. Bà mẹ thương con, khẳng định Angulimala là con mình, tìm cách báo cho Angulimala biết lệnh truy bắt của nhà vua. Nghe tin Angulimala trốn tránh tại một khu vực hẻo lánh, bà lên đường tìm con. Bấy giờ cũng là lúc Đức Phật quyết định cứu giúp Angulimala. Đức Phật dùng thần thông tiến vào con đường nơi Angulimala rình rập chờ giết người thứ 1.000. Nhiều người thấy Đức Phật đi vào con đường ấy đều năn nỉ Ngài không nên đi tiếp vì sợ Ngài bị Angulimala làm hại. Từ chỗ ẩn nấp, trước hết Angulimala thấy có một người đang đi trên đường và nhận ra đó chính là mẹ mình. Kẻ sát nhân vừa lóe lên ý định sát hại bà để thành tựu xâu chuỗi 1.000 ngón tay thì trông thấy Đức Phật cũng đang đi tới. 

Trong một thoáng, anh ta nghĩ rằng không nên giết mẹ mà hãy cố giết vị sa-môn kia, mặc dù giết vị sa-môn thì khó khăn hơn là giết mẹ, một người phụ nữ yếu đuối. Anh ta đuổi theo Đức Phật, nhưng càng đuổi thì khoảng cách giữa anh ta với Đức Phật càng xa, mặc dù Đức Phật vẫn đi theo nhịp thiền hành. Ngạc nhiên, Angulimala gọi lớn, “Sa- môn, hãy đứng lại!”. Đức Phật trả lời y, “Ta đã đứng lại rồi, này Angulimala. Còn ngươi, cũng hãy đứng lại!”. Câu trả lời của Đức Phật làm Angulimala hoang mang. Và thiện tính của người này bừng sáng. Những câu đối đáp tiếp theo giữa kẻ sát nhân và Đức Phật đã củng cố ý thức của anh ta. Angulimala xin được theo Phật, từ bỏ ác nghiệp. Kinh Trung Bộ cho biết sau đó Angulimala tu tập tinh tấn, nhẫn nhục chịu nhiều quả báo đau khổ, rồi đạt thánh quả A-la-hán.

Trường hợp thứ hai được ghi trong kinh Đại Bát Niết- bàn thuộc Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, chỉ nhắc qua trường hợp một người làm nghề bán thịt ở thành Ba- la-nại có tên là Quảng Ngạch, mỗi ngày đều giết không biết bao nhiêu là con dê; một hôm gặp được Tôn giả Xá-lợi-phất, xin thọ Bát giới kinh một ngày một đêm, nhờ nhân duyên ấy, sau khi qua đời, được thác sanh lên cõi trời của Tỳ-sa-môn thiên vương ở phương Bắc.

Đấy là những sự tích lấy từ trong kinh điển nhà Phật, cho thấy những người làm ác một khi nhận thức được ác nghiệp, quyết tâm từ bỏ, đều có thể đạt tới sự giác ngộ tối thượng. Lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ còn ghi nhận trường hợp vua Asoka (A-dục), một vị vua nổi tiếng tàn bạo, giết sạch ngay cả những người anh em cùng cha khác mẹ của mình để chiếm ngôi, mở rộng đế quốc của mình bằng những chiến dịch chinh phạt hung hãn; nhưng cũng chính cảnh tang tóc của chiến tranh đã khiến nhà vua hối hận. Ông quay đầu về với lý tưởng hòa bình của Phật giáo, trở thành một Phật tử thuần thành, một vị hoàng đế của lòng từ, góp phần truyền bá Phật giáo ra ngoài đất Ấn Độ, được người đời xưng tụng là bậc hộ pháp vĩ đại nhất của Phật giáo.

Nhìn từ góc độ cá nhân, con dao chỉ là vật để giết mổ. Nhưng đứng ở góc độ xã hội như trường hợp vua Asoka, đao trong câu thành ngữ dẫn trên có thể được hiểu là biểu tượng của quyền lực. Con người có quyền lực có thể vì tham vọng, vì vô minh, vì tà kiến mà trở nên tàn bạo. Nhưng ngay khi nhận thức được ác nghiệp, thì chính quyền lực đem lại phúc lợi lớn cho nhiều người.

Lịch sử luôn lên án những cuộc chinh phục vì tham vọng, những hoạt động buôn bán vũ khí, buôn bán nô lệ quy mô toàn cầu, những cuộc chiến tranh xâm lược tiêu diệt hẳn một vài dân tộc và nền văn hóa, vì tà kiến cho rằng chỉ có đấng thượng đế mà mình tôn sùng mới chính đáng, còn tất cả những niềm tin khác biệt đều là tà giáo. Lịch sử cũng phê phán gay gắt những bạo chúa sử dụng quyền lực giết hại nhiều người, cưỡng đoạt của nhân dân làm kiệt quệ đất nước chỉ phục vụ cho cá nhân và dòng tộc. Lịch sử cũng kết tội những nhà tư bản chỉ biết lũng đoạn đầu cơ bóc lột người lao động, người tiêu thụ để làm giàu cho chính mình, tập trung những khoản của cải kếch xù mà không biết giúp đỡ ai.

Nhưng lịch sử cũng ghi nhận công ơn không ít những nhà chính trị, quân sự phải giải quyết vấn đề độc lập, tự do, phú cường cho đất nước, biết sử dụng công cụ quyền lực để trừng trị kẻ xấu xa hại dân hại nước một cách chính đáng, biết giảm thiểu thiệt hại trong mọi quá trình tranh chấp, biết dưỡng sức dân trong chiến tranh để hướng đến lúc xây dựng trong hòa bình.

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 143
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2015(Xem: 7086)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7088)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 7735)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 14305)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 11577)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
17/01/2015(Xem: 8578)
Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp) Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị.
16/01/2015(Xem: 21557)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9425)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 7624)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
14/01/2015(Xem: 7674)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]