Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Bổn phận làm vợ

27/11/201311:40(Xem: 19857)
11. Bổn phận làm vợ

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



11. Bổn phận làm vợ






Sau lễ cưới tôi về nhà chồng ở Taktser, cách Churkha khoảng mười lăm cây số. Vùng này nổi tiếng sinh nhiều con gái và rất ít con trai. Vì lý do này, vị Taktser Rinpoche đời trước đã xây một cái tháp (stupa) hay "chorten" để giúp cho các bà vợ ở đây sinh con trai[1]. Người ta nói rằng sau khi ngài xây tháp này, các bà vợ đã sinh nhiều con trai hơn. Trước đó, đàn bà không bao giờ về nhà chồng, còn đàn ông thì phải về nhà vợ để làm công việc ở đó.

Làng Taktser ở trên một sườn đồi, có nhiều rừng, vì vậy việc canh tác không thuận lợi. Không có kinh dẫn nước, người dân ở đây chỉ có nước mưa để dùng. Nhà mới của tôi có một tầng. Chúng tôi sống ở sân trong, nơi chúng tôi ở cũng có một cột cờ để treo những lá cờ cầu nguyện. Gia súc không được vào khu vực này. Ở sân ngoài là chuồng gia súc và khu của người giúp việc.

Nhà mới của tôi ở cách nhà của cha mẹ chín giờ đi ngựa. Tôi có thể về thăm nhà cha mẹ mỗi năm một lần, có khi cha tôi đến đưa tôi về. Phần lớn các người vợ ở vùng chúng tôi về thăm cha mẹ sau khi gieo hạt vào tháng tư, khi có ít công việc để làm. Khi tôi về nhà, mẹ tôi may tất cả trang phục cho tôi mặc trong một năm. Ở Tsongkha, phụ nữ trẻ tuổi quen mặc đẹp với những cái áo mới nhất và rực rỡ nhất. Mẹ tôi cũng may quần áo cho chồng tôi và những người nhà chồng, để gây tình cảm tốt giữa hai gia đình vốn có mối liên hệ luôn luôn không dễ chịu.

Khi tôi mới về nhà chồng, đa số công việc trong nhà do người chị chồng của tôi làm. Người chị này đã đưa chồng về ở nhà mình, nhưng anh ta không muốn ở chung với họ, vì vậy hai vợ chồng chị lại đi về nhà chồng sau lễ cưới của tôi một tháng. Như vậy chỉ còn mỗi mình tôi làm mọi việc trong nhà.

Mẹ chồng của tôi đã không về nhà chồng của bà, mà chồng bà được đưa về sống ở nhà gia đình bà. Sau khi lấy chồng nhiều năm, bà không có con, vì vậy bà đi lễ chùa và cầu tự. Bà cầu nguyện với vị nữ thần phồn thịnh rằng nếu bà được như sở nguyện, bà sẽ cúng dường mỗi vị thần một bộ trang phục. Trong dịp này bà đi tới một cái hang, nơi bà phải đi trong bóng tối cho đến khi tay bà đụng phải một vật nào đó. Người ta nói rằng, nếu bày tay đụng vào một con rắn, người đó sẽ không bao giờ thọ thai. Bàn tay của bà đã đụng phải một chiếc giày của trẻ sơ sinh. Chín tháng sau bà có thai. Sau khi sinh đứa con, bà tự tay làm một chiếc giày đi đôi với chiếc giày mà bà đã tìm thấy, rồi may một bộ trang phục đẹp đưa đến cúng dường vị nữ thần ở chùa.

Mẹ chồng tôi không bao giờ đụng tay làm một việc gì. Bà là người phô trương uy quyền và không sợ một ai cả. Bà sống theo cảm xúc và ý tưởng bất chợt của mình, bà thích ăn ngon, mặc đẹp và sống sang trọng. Bà rất sạch sẽ, dù nếu chỉ có một cọng cỏ ở trong nhà, bà cũng lượm nó liệng đi. Bà cũng nóng tính và đôi khi bạo động. Là con dâu trong nhà, tôi phải chịu tất cả, cái lưỡi sắc bén của bà đã làm cho tôi khốn khổ nhiều. Nếu bà ăn ở trong phòng ăn thì tôi không được ở trong phòng đó mà phải ăn ở trong bếp, mà lại phải ăn đứng chứ không được ngồi. Nhưng bà cũng là người có tình cảm nồng ấm và có lòng quảng đại, bà chia sẻ mọi thứ một cách công bằng và bình đẳng. Có những lúc tôi đã cảm động vì sự hiểu biết của bà. Tôi làm việc ở ngoài đồng ruộng nên cổ tay áo của tôi thường bị rách, bà mẹ chồng đã cố gắng khâu lại cho tôi, dù bà không giỏi may vá gì cả, tôi luôn luôn phải khâu lại mấy cái tay áo vì bà đã làm cho chúng xấu hơn trước.

Cha chồng của tôi rất chăm làm công việc đồng áng. Mỗi ngày hai lần ông đi ra đồng ruộng với các tá điền. Ông là một người tốt và tử tế. Tôi gặt lúa mà không biết cách bó lúa và ông sẵn lòng giúp tôi việc này. Ông không biết mắng chửi người khác, câu nói nặng nhất của ông là "không biết làm gì cả", và ông cũng chỉ nói nhỏ. Khi lỡ tay làm bể chén dĩa, tôi không dám nói cho mẹ chồng biết và tôi chôn những mảnh chén dĩa đó ở dưới đất. Nhưng tôi gặp cha chồng nói cho ông biết việc phạm lỗi của mình và khóc nức nở. Tôi vẫn nhớ lời nói của ông:"Sao không cầm cái chén cho cẩn thận? Nếu bà ấy có hỏi về cái chén thì cứ nói là không biết. Cha sẽ nói với bà ấy là do chính cha làm bể".

Thời đó vợ chồng không bình đẳng với nhau. Dù là người trông coi mọi việc trong nhà, nhưng người vợ luôn luôn phục tùng người chồng. Chồng tôi là người đứng đắn, thật thà, trực tính, mạnh mẽ, nóng tánh và có tính ra oai. Ông ta thích đánh bạc, vui chơi và thích cưỡi những con ngựa nhanh. Giống như bà mẹ, ông ta không làm gì cả. Ông ta không bao giờ ở lại nhà lâu, và còn không biết ở ngoài đồng chúng tôi trồng cái gì.

Một trong những anh em của chồng tôi là quản lý tài chánh của tu viện Kumbum. Ông này là một người tốt và cư xử tốt với tôi. Ông nói với tôi rằng nếu chồng tôi đánh tôi, tôi cứ mang con gái của tôi đến tu viện Kumbum ở với ông. Ông thường mắng chồng tôi là tại sao không giúp tôi làm công việc mà chỉ biết đi chơi. Hai người chị của chồng tôi cũng rất tốt với tôi. Khi nào về thăm nhà, họ cũng giúp tôi làm công việc, dù có những việc nhỏ chỉ làm trong vài phút.

Mẹ chồng của tôi là người có quyền lực cao nhất, nhưng sau khi bà qua đời, tôi là người độc nhất đảm nhiệm những việc như quản lý người hầu, làm việc đồng ruộng, kiểm soát tiền bạc và mua bán nông phẩm.

Tôi thức dậy vào một giờ sáng để đi lấy nước cho những người hầu và tá điền. Tôi đi sớm vì lúc đó không đông người, nhưng chúng tôi vẫn phải xếp hàng. Chúng tôi cẩn thận kéo nước từ dưới giếng lên một cách chậm chạp để không làm động lớp đất ở đáy giếng, người nào làm khuấy động bùn đất sẽ bị các chị em khác phản đối. Có khi tôi phải đi lấy nước mười lần trong một ngày, nhưng thường thì năm hay sáu lần là đủ. Vào mùa Đông hai bàn tay của tôi sẽ bị đông cứng nếu không được thoa mỡ cừu.

Những người nhà của chồng tôi thức dậy lúc bảy giờ sáng. Lúc đó tôi phải pha trà cho họ, và mẹ chồng sẽ mắng nếu tôi không pha trà nhanh. Tôi phải quét nhà, đốt lò, nấu trà muối cho những người giúp việc, họ chỉ uống trà muối, vì họ cho rằng uống trà muối sẽ không bị đau bụng. Chúng tôi đều ăn sáng lúc tám giờ rưỡi và sau đó tá điền đi ra ngoài đồng ruộng, tôi còn phải cho gia súc ăn và vắt sữa. Năm hay sáu ngày một lần, tôi phải dọn sạch lò sưởi "kang" bằng cào cỏ rồi cho đầy trở lại với phân và rơm.

Diki Tsering

Buổi trưa, tôi mang thức ăn trên lưng đi ra ruộng cho các tá điền ăn bữa trưa, rồi tôi làm việc cùng với họ. Trong khi làm việc chúng tôi bảo người nào hát hay thì hát cho mọi người cùng nghe, chúng tôi rất thích ca hát. Khi mặt trời lặn vào lúc năm hay sáu giờ chiều, mọi người tà tà đi về nhà, vừa đi vừa hát ca, nhưng riêng tôi thì phải chạy vội về nhà vì sợ mẹ chồng la mắng. Tôi phải làm bữa ăn tối ngay cho gia đình và những người giúp việc. Việc nhóm lửa mẹ chồng tôi cũng không làm, nếu tôi không làm nhanh, bà sẽ đánh tôi. Sau khi mẹ chồng của tôi qua đời, tôi không làm việc ngoài đồng ruộng nhiều, vì tôi phải trông coi nhà và các con.

Trong mấy năm đầu lập gia đình, tôi chỉ được ngủ ba giờ hay bốn giờ mỗi đêm.

Mỗi lần đi xay lúa từ tám đến mười ngày, chúng tôi không ngủ gì được cả. Chúng tôi sàng bột từ một giờ sáng đến lúc mặt trời mọc, và đó là lúc bắt đầu công việc trong ngày của chúng tôi. Tôi thường cảm thấy mệt không thể chịu đựng nổi, có nhiều khi đi lấy phân cho lò sưởi, tôi phải ngồi tạm xuống đâu đó ở bên đường để tìm một giấc ngủ ngắn. Thỉnh thoảng, quá mệt nhọc, tôi đi tìm một chỗ vắng vẻ để nhỏ vài giọt nước mắt tủi thân, vì bản thân tôi có tính kiêu hãnh, không bao giờ khóc trước mặt mọi người. Trong những năm cực khổ đó, tôi không bao giờ kể lể với bất cứ ai, ngay cả chồng tôi, là mình đang chịu đau khổ.



[1]Stupa là tháp thờ xá lợi của Chư Phật hay các của vị lạt ma khác, tượng trưng cho tâm Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2015(Xem: 7062)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7070)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 7708)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 14282)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 11556)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
17/01/2015(Xem: 8568)
Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp) Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị.
16/01/2015(Xem: 21539)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9410)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 7592)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
14/01/2015(Xem: 7658)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]