Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Xã hội ở Amdo

27/11/201311:35(Xem: 19404)
05. Xã hội ở Amdo

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An



5. Xã hội ở Amdo





Ở Amdo[1]thời đó vẫn còn sự phân biệt giai cấp. Thí dụ những người thuộc hạng người hầu thì chỉ ở trong bếp, và họ không có sự giao tiếp với xã hội, dù chỉ ở trong nhà. Những người mạt hạng trong xã hội là bọn trộm cướp. Kế đó là những người đồ tể và những người làm nghề về da thú và lông thú. Nếu chúng tôi có việc cần phải mượn một đồ tể, theo phép lịch sự, chúng tôi mời người đó uống một chén trà, nhưng sau khi người đó đi khỏi, chúng tôi sẽ rửa cái chén đó với tro, một nghi thức được xem là sẽ làm sạch cái chén. Ở Lhasa, thợ bạc và thợ vàng cũng được coi là thuộc giai cấp thấp và không được cho vào nhà. Nhưng hạng người thấp nhất trong xã hội, tới mức không được xem là một giai cấp là những người khiêng quan tài trong tang lễ.

Các vị lạt ma (tu sĩ) là giai cấp cao nhất trong xã hội và được mọi người tôn kính. Giới nông dân chúng tôi rất mộ đạo, dù không tìm hiểu giáo lý một cách trí thức. Y phục của các vị lạt ma làm cho chúng tôi nghĩ tới y phục của Je Rinpoche, tên gọi mà chúng tôi dành cho Đạo sư Tsongkha, có quê hương là quận Tsongkha (Rinpoche là một danh hiệu tôn vinh cho các vị lạt ma vốn là hóa thân của các vị thầy danh tiếng, và có nghĩa là "đấng tôn quý" (precious one). Những tu sĩ nghèo nhất cũng được tiếp đãi một cách trang trọng trong nhà của chúng tôi. Ở Lhasa thì không, nhưng ở Amdo, nếu tình cờ gặp một vị lạt ma, chúng tôi sẽ tức khắc mời ngài đến nhà chúng tôi và tiếp đãi ngài những món ăn và trà ngon nhất, với những chén đĩa đẹp nhất.

Những gia đình giàu thì có nông trại lớn và nhiều người giúp việc, nhưng thành quả kinh tế được phân chia tương đối đồng đều cho mọi người, và không có ai thực sự nghèo đói. Chúng tôi không có hạng nông nô, mà phải mướn người hầu hay tá điền. Làng chúng tôi có khoảng một trăm gia đình, mỗi gia đình có một miếng đất riêng, chúng tôi phải trả một món tiền thuế cho chính phủ Trung Hoa, và viên quan cai trị địa phương người Trung Hoa tên là Ma Pu Fang.

Phần lớn dân ở đây là nông dân, nhưng cũng có thương nhân. Những người này đi bán dạo ở các làng mạc với những thùng đựng hàng hóa, diêm quẹt, xà bông, kim chỉ, len và những nhu yếu phẩm khác. Thông thường người ta không dùng tiền, mà dùng lúa mì, lúa mạch và những sản phẩm khác để đổi lấy những hàng hóa đó.

Ở thị trấn cũng có nhiều tiệm nhỏ bán những món đồ cần yếu như trà và vải. Khi mua hàng, chúng tôi trả bằng lúa mạch hay những nông sản khác. Cũng có những quán ăn và quán trọ bên đường. Tôi còn nhớ mùi những món ăn ngon lành tỏa ra từ những quán ăn đó.



[1]Ghi chú: Amdo là một vùng biên giới gần biên giới Trung Hoa và nơi đây xảy ra tranh chấp giữa hai nước, phần lớn cư dân ở đây là người Tây Tạng nhưng Trung Quốc vẫn tuyên bố đây là lãnh thổ của mình, họ gọi tỉnh này là Thanh Hải. Từ thế kỷ thứ mười tám, các lãnh chúa ở đây thường được chính phủ Trung Hoa ủng hộ. Trong những năm đầu đời của bà Diki Tsering, vùng này cai trị bởi Ma Pu Fang, một viên tướng người Hoa Hồi Giáo, được Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ.


Một vài hình ảnh về làng Amdo

Amdo_map
Amdo_lake
Labrang_Amdo_2
Labrang_Amdo
Amdo_thanka

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6498)
Theo cách nghĩ thông thường của người bên ngoài cửa chùa, Lục Hòa là một nguyên lý, một nguyên tắc hay qui tắc được áp dụng trong Tăng đoàn để có đời sống hòa hợp. Đơn giản mà nói, cách nghĩ ấy đúng. Nhưng dùng chữ “nguyên lý” hay “nguyên tắc” khiến người ta không khỏi có cảm nghĩ rằng để áp dụng Lục Hòa, tập thể xuất gia có vẻ như phải khép mình vào một thứ kỷ luật khắt khe, đầy khuôn khổ, phép tắc và thiếu tình cảm, giống như kỷ luật quân đội.
09/04/2013(Xem: 11791)
Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
08/04/2013(Xem: 8371)
Hôm nay là ngày Mồng Một tháng Năm nhuần năm Mậu Dần, nhằm ngày 24 tháng 6 năm 1998 sau khi làm lễ Bố Tát (Uposatta) tụng giới nơi chánh điện, trở lại thư phòng, tôi bắt đầu viết cho quyển sách của năm nay nhan đề là: Sống và Chết theo quan niệm của Phật Giáo.
08/04/2013(Xem: 8980)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
08/04/2013(Xem: 6150)
Sáng nay, tôi đang rửa chén đoại trong quán, Thiện Đạt, một Phật tử công quả tại Chùa hớt hải chạy qua quán báo tin: - Anh Thị Chơn ơi! Anh có biết là Thượng Tọa Thiện Thông đã bị đưa vào nhà thương rồi chưa? - Chuyện gì vậy ? Tôi hỏi.
08/04/2013(Xem: 5610)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu. Khi hết hạnh phúc, người ta bất hạnh; và người ta cũng trở nên hạnh phúc khi hết bất hạnh. Đi từ trạng thái này qua trạng thái kia xảy ra tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến, . . .
08/04/2013(Xem: 17182)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 23081)
Quyển sách không nhằm vào chủ đích phân tích những gì trong kinh điển mà đúng hơn là để nhắc nhở chúng ta hãy nên nhìn thẳng vào bản chất của chính mình và của mọi vật thể chung quanh hầu giúp chúng ta biết ứng xử thích nghi hơn với cái bản chất ấy của chúng và để giúp chúng ta trở thành những con người sáng suốt, hoàn hảo và an vui hơn. Bản dịch sang tiếng Việt này được dựa vào ấn bản tiếng Anh của Rod Bucknell và tiếng Pháp của Jeanne Schut trên đây.
08/04/2013(Xem: 14576)
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc.
08/04/2013(Xem: 27267)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Ðức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]