Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người đời ai biết

08/11/201307:34(Xem: 7748)
Người đời ai biết
Nguoi_Doi_Ai_Biet_1
Người đời ai biết?
Tản mạn về cuộc hội ngộ của Ngài
Đạt Lai Lạt Ma với Chùa Viên Giác

Nguyên Đạo


[Một]

Độc.

Có hai mẹ con nhà kia, người đã ba mươi mấy kẻ gần bảy mươi cùng đi vào rừng tìm nấm, đài truyền hình Đức loan tin như thế. Mùa này, cuối hè đầu thu là mùa sưu tập các loại nấm trong rừng. Người mẹ rất rành rõi về các loại nấm nên sau khi tìm được loài nấm quý bèn hái và ăn sống ngay mấy cái. Người con gái cẩn thận hơn, về nhà dùng iPhone chụp hình nấm, đem so sánh trên mạng internet và sau đó mới xuống bếp xào nấu và ăn tối cùng mẹ. Hai mẹ con vô cùng hả hê. Nhưng bỗng dưng đến nửa khuya hai mẹ con lên cơn đau bụng dữ dội, phải kêu xe cứu thương đưa vào bệnh viện. Người con gái chết ngay trong đêm đó, người mẹ đến chiều hôm sau cũng mất – cả hai chết vì lý do ngộ độc. Hai cái chết với hai lý do thật lãng nhách!

Chuyện chỉ như thế thì cũng chẳng có gì để nói. Năm nào mùa hái nấm cũng có vài ca khẩn cấp vào bệnh viện. Cắc cớ là, tại sao người mẹ ăn nhiều, ăn trước và ăn cả nấm sống mà lại chết sau hơn mười hai giờ đồng hồ. Như thế nấm nào độc hơn nấm nào? Mà không, cả hai cùng ăn một loại nấm, ăn cùng một nồi nấu. Phải chăng độc ít, độc nhiều là tùy căn cơ, nghiệp chướng?

Độc nào độc hơn, người đời ai biết?

[Hai]

Duyên.

Ngày 20.09.2013. Ngài Đạt Lai Lạt Ma đến thăm Chùa Viên Giác, chuyến ghé thăm chớp nhoáng vài giờ trên đường Ngài ra phi trường để bay về trú xứ. Tình cờ vào trang nhà Quảng Đức đọc được bài phóng sự sống động"Nụ cười bất diệt“của chị Hoa Lan viết. Bài nào của chị ấy mà chả sôi nổi đầy hình ảnh, đọc như xem phim. Chị ấy viết về những tâm đắc qua buổi pháp thoại và cả những lo âu cho những người bạn đạo của chị khi không có vé vào, đến khi có được vé rồi thì phải chụp hình ngay tấm vé có tên mình, làm như sợ để lâu chữ sẽ bay đi hết.

Hôm ấy tôi cũng có được vé vào Chánh Điện. Từ chiều thứ năm là đã khăn gói lên đường vì sáng sớm mai đi thì sợ lỡ kẹt xe, sẽ mất đi một cơ hội quý. Trên đường đi tôi ghé đón người quen là vị Ni sư người Đức tu theo Tây Tạng tên là Carola Roloff (Jampa Tsedroen). Ni Sư là một vị tu sĩ ni, đã xuất gia và làm việc tại Trung Tâm Tây Tạng khoảng ba mươi năm nay, hiện là giáo sư Viện Đại Học Hamburg về Phật Giáo. Ni Sư cũng là một nhân vật quan trọng, đóng góp nhiều mặt tích cực trong Ni Bộ thế giới. Vì là học trò của Cố Hòa Thượng Ngawang, người thân tín của Đức Đạt Lai Lạt Ma và đã từng nhiều lần làm việc cho các chương trình giảng dạy dài ngày của Ngài, thính chúng có khi lên đến gần hai mươi ngàn người, hoặc tổ chức các kỳ đại hội, nên Ni Sư biết nhiều mẫu chuyện và kể cho chúng tôi nhiều giai thoại thú vị về Ngài. Trong gần hai giờ lái xe, những mẫu chuyện duyên dáng của Ni Sư làm tôi càng háo hức hơn.

Thật ra đây không phải lần đầu tiên tôi gặp Ngài, mặc dù tôi vô duyên nên đã đánh mất nhiều cơ hội tiếp kiến Ngài khi Ngài đến Hamburg, thành phố tôi ở trước đây.

May là tôi đã có một lần gặp Ngài vào mùa hè năm 2003 tại Wiesbaden trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Năm đó do công việc của cơ quan tôi có tham dự một cuộc họp tại một khách sạn ở gần Hội Trường Rhein-Main-Halle Wiesbaden. Cuộc họp thảo luận đến hồi phải đi sâu vào chi tiết thì nghe có tiếng ồn ào phía sau lưng. Thoạt đầu tôi hơi khó chịu và quay lại nhìn, thấy một toán cảnh sát mười mấy người chạy qua chạy lại ồn ào, và chừng vài phút sau thì Ngài Đạt Lai Lạt Ma xuống xe và đi cả đoàn vào, có cả ông Thủ Hiến của Tiểu Bang Hessen là ông Roland Koch (sau này biết được là phái đoàn của Ngài nghỉ tại đây). Tôi quá đỗi ngạc nhiên, đứng bật dậy, định đãnh lễ Ngài nhưng không kịp vì Ngài chỉ còn cách khoảng một mét nên chỉ kịp chắp tay vái. Ngài đến nắm tay tôi và hỏi gì đó tôi không hiểu, có lẽ bằng tiếng Tây Tạng. Tôi nắm và giữ chặt tay Ngài lại nhưng mấy người an ninh Tây Tạng chạy đến và kéo Ngài đi tiếp. Phải nói thêm ở đây là mặt mũi của tôi cha sanh mẹ đẻ trông giống người Tàu hơn là người Việt, lần viếng thăm đó của Ngài lại bị Tòa Đại Sứ Trung Quốc phản đối dữ và có tạo không ít khó khăn cho chính quyền tiểu bang Hessen Đức khi vị Thủ Hiến vẫn tiếp Ngài và phái đoàn, mặc dầu ông ta đã giải thích là tiếp với tư cách tình bạn chứ không phải tiếp ngoại giao. Nghĩ thương cho dân tộc Tây Tạng, nơi sản sinh không biết bao nhiêu bậc đạo sư mà vẫn không tránh được nghiệp dữ! Tai nạn này xem ra giống cuộc tàn sát rửa nhục của Vua Lưu Ly ngày xưa với bà con dòng họ Thích ở thành Ca Tỳ La Vệ. Chính đức Phật đã ba lần ra tay cứu nhưng vẫn không tránh khỏi. Định nghiệp khó chuyển - người đời ai biết?

[Ba]

Hẹn – Gặp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã đến thăm Chùa Viên Giác lần trước vào năm 1995. Đã có một cuốn sách ghi rất chi tiết về sự kiện này. Nhưng không chỉ có như thế. Năm 2003 nhân đến Bồ Đề Đạo Tràng Ngài cũng đến thăm Trung Tâm Tu Học Viên Giác ở Ấn Độ. Thầy Hạnh Định, lúc ấy là Tri Sự tại đấy kể chuyện về chuyến viếng thăm của Ngài thật dí dõm, dễ thương. Buổi trưa khi Tăng chúng Tu Viện đang ngồi ăn cơm trưa thì cảnh sát Ấn vào thông báo là chiều hôm ấy, khoảng hai giờ chiều Ngài Đạt Lai Lạt Ma muốn ghé thăm Trung Tâm. Dĩ nhiên Thầy Hạnh Định và Tăng chúng của Trung Tâm vô cùng hoan hỷ và hạnh phúc. Có khối Chùa hay Trung Tâm ở đây muốn mời Ngài đến thăm mà không được toại nguyện. Ngặc nỗi ở Ấn Độ buổi trưa tất cả những công nhân Ấn Độ phụ việc ở Chùa đều về nhà nghỉ, nên hôm đó sáu bảy vị tu sĩ và cư sĩ còn lại ở Chùa phải cấp tốc dọn dẹp để kịp đón rước. Nói nghe đơn giản như thế nhưng bên cạnh việc dọn dẹp lau chùi còn kéo theo bao nhiêu những thủ tục rắc rối khác như cảnh sát Ấn Độ đến rà mìn, kiểm soát an ninh, sau đó an ninh của Tây Tạng cũng kiểm soát thêm lần nữa (lúc đó Ngài vẫn còn là lãnh tụ của chính phủ lưu vong Tây Tạng). Đúng một giờ rưởi thì cả Tăng Chúng đều y hậu chỉnh tề đứng phía trước để cung đón Ngài (sau khi cảnh sát đã rà máy khám từng người).

"Chúng tôi phải chờ mãi đến gần bốn giờ chiều thì tiếng còi hụ to của những xe cảnh sát vang dội khắp nơi. Ngay lúc đó, chú Hạnh Giải và chú Đồng Thuận đánh ba hồi chuông Bát Nhã. Âm thanh chuông trống ngân nga xen lẫn nhau chưa kịp dứt thì đột nhiên một chiếc xe hơi trắng từ ngoài chạy thẳng vào trong sân chùa. Khi xe vừa dừng lại, có hàng chục nhân viên Tây Tạng và cảnh sát ập đến xe bao vây. Một sự kiện sôi nổi đầy hấp dẫn chưa từng có đang diễn ra trước mắt chúng tôi, làm trong lòng lúng túng không biết mình phải làm sao cả ! Nhưng chúng tôi cứ làm theo dưới sự hướng dẫn của thầy Ngawang, và thầy đã giới thiệu chúng tôi là Tri Sự ở Chùa, sau đó Ngài choàng khăn trắng lên cổ của chúng tôi và tiến dần vào để bắt tay chào hỏi quý thầy cô đang đứng làm hàng rào“.Thầy Hạnh Định đã kể lại như thế.

Ngài bước vào Chánh điện, tụng kinh chú nguyện, sau đó vào nhà Tổ và cuối cùng đến Thư Viện của Trung Tâm để dùng trà. Khi vừa vào đến Thư Viện, thấy hình sư phụ của thầy Hạnh Định là Hòa Thượng Như Điển treo ở đây, Ngài chỉ tay vào bức hình và nói ngay với mọi người: “Tôi có biết vị này – I know him“. Sau đó Ngài tự tại vào phòng dùng trà và bánh mứt trước những cặp mắt lo âu của những cận vệ. Thử tưởng tượng những mứt bánh của Việt Nam, cả với những người Việt Nam ở hải ngoại cũng ngại là có thể có trứng ruồi nhặng trong quá trình phơi khô, chế biến; huống hồ với ông thầy tu Tây Tạng, mà người ấy là lãnh đạo chính phủ thì làm sao mấy anh cận vệ không lo ngại. Ngài dùng tự nhiên, khen ngọt và chỉ phiền là mứt gừng cầm lên lên dính đường dơ quá. Thầy Hạnh Định đưa giấy cho Ngài lau tay và mời tiếp mứt mãng cầu, Ngài trả lời – cũng theo lời kể Thầy Hạnh Định:

„Ngài liền nói : “if you open it for me, so i am not dirty !” nghĩa là “nếu con mở, thì tay ta sẽ không bị dơ nữa!” rồi Ngài tiếp tục cười vui vẽ vô cùng. Sau khi mở kẹo xong, Ngài hả miệng cho chúng tôi đút. Một hành động nhí nhỏm hồn nhiên sao đâu!!! Mọi người ai thấy đều cười“

Đọc đến đây tôi thấy hiện ngay trước mắt khuôn mặt và nụ cười hồn nhiên tự tại của Ngài, luôn tạo cho mọi người có cảm tưởng rất gần gũi thân thiết. Ngài ứng thân Bồ Tát để đến với tất cả, dù thân sơ, thù bạn. Ngài như một người đi xa về thăm nhà, ăn những món ăn của gia đình, của tuổi thơ. Hạnh phúc, và đẹp thay cho những giây phút vô tư như vậy.

[Bốn]

Si.

Cũng thế, hôm ấy, 20.09.13 tại Chùa Viên Giác Hannover, Ngài vào Chánh Điện, tụng kinh niệm chú; sau đó chúng tôi cùng tụng bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Việt, rồi Ngài an nhiên bước lên tọa vị trên pháp tòa và bắt đầu nói pháp cho khoảng 300 người trong Chánh điện. Có gần 1000 người khác ở ngoài hay bên dưới hội trường, vì lý do an ninh không có vé vào nhưng được xem truyền hình trực tiếp.

Nguyên nhân chính của khổ đau là "Si“,Ngài bắt đầu như thế.

Tôi nghe và thấy hơi hụt hẩng, cảm giác như đang đi dạo chơi giữa đường phố Sài Gòn, mắt còn nhìn quanh những phong cảnh cũ thì chân rơi vào một ổ gà. Còn nhớ trước đây có lần nói chuyện với những người Đức về Phật Giáo, tôi hăm hở giải thích về tam độc tham sân si – tài liệu tiếng Đức nói là ba ngọn lửa (drei Feuer). Tôi ghi trên bảng PowerPoint là Tam Độc /sang hàng/ Tham – Sân – Si. Không biết có phải đó là điểm vụng về của tôi hay không mà mấy bạn Đức hôm đó liên tưởng đến kiểu lý luận tam đoạn luận, như A > B và B > C thì ắt A > C. Ở đây có thể họ hiểu là : từ Tham sanh Sân, từ Sân sanh Si và từ Si … thì bí và rớt xuống hục nước sình và nằm chết dí ở đó luôn! Tôi suy gẫm mãi, mình cũng là dân kỹ thuật mà đâu có bị những cái túi lý luận nặng cả tạ đè lên đầu như thế. Hay nhờ mình có tin Phật ? May mà sau đó giải thích vòng vo thì cũng qua chuyện. Những lần sau khôn hơn tôi ghi dấu nối hai đầu tương tức nhau giữa ba cụm đó mới được yên. Tôi ghi thế này :


NguoiDoiAiBiet


Bây giờ ngồi đây nghe Ngài bắt đầu câu chuyện bằng chữ „Si“. Tôi nghe và bừng tĩnh. Thì ra mới hay, độc nào mà chẳng độc ! Chất độc si mê đã nhiểm vào tôi sâu quá rồi chăng, nay mới gặp Thầy cứu. Cho hay, tất cả đều bắt đầu từ "cái nhìn“. Tôi bị một đồng nghiệp phê bình một công việc tôi làm không hiệu quả lắm, nếu nhìn tích cực thì bạn ấy đã giúp đỡ tôi thấy khuyết điểm của mình, nhìn tiêu cực thì có thể ghét bỏ và cho là người ta ganh tị hạ nhục hay cố ý làm hại mình. Bị một cái tát vào mặt có thể đau vài mươi phút ở chỗ tát nhưng cái đau trong lòng thì âm ỉ, có khi đau từ thế hệ này sang thế hệ khác, như truyện kiếm hiệp Kim Dung, và nhất quyết tầm thù.

Chỉ là một cái nhìn, chỉ một Chánh Kiến.

Cũng may lúc đó Ngài còn mở rộng ra hơn và nói thêm về duyên khởi, nói thêm về vô ngã, về tam pháp ấn giới định tuệ, lại cho thêm ví dụ nữa. Những điều này chúng tôi ai cũng hơn một lần được nghe giảng tại một đạo tràng nào đó, nhưng bây giờ ngồi ở đây nghe chính vị Phật sống Tây Tạng nói, chúng tôi thấy như có một luồng năng lực thêm vào những lời dạy của Thế Tôn, ai cũng vui và càng thấy tin tưởng hơn. Tin tưởng hơn nữa khi có vị cắt cớ đặt câu hỏi là bao giờ thì Phật Pháp diệt, hiểu theo nghĩa là mạt pháp (chắc giống như kiểu ngày tận thế hay ngày 21.12.2012 lịch Maya cổ đại). Thầy Hạnh Giới phải dịch hai lần Ngài mới hiểu được câu hỏi. Ngài Đạt Lai Lạt Ma quả quyết : Phật Pháp không bao giờ diệt. Lời nói cương quyết làm cho Phật tử thêm vững niềm tin. Ngài còn dạy thêm : Ở thế kỷ thứ hai mươi mốt này, người Phật tử cũng tu, cũng tụng kinh nhưng cũng phải học Phật Pháp, phải nghiên cứu, phải tư duy, phải thiền định để có thể lúc nào đó sẽ thành Phật. Này nhé, nghe rõ nhé : chúng tôi hôm ấy ở ngày ấy tháng ấy, trong hội chúng khoảng 300 người ở Viên Giác Đức Quốc đã được vị Phật sống Tây Tạng thọ ký là tất cả sẽ (có thể) thành Phật trong tương lai – nếu chịu khó tu !

Có một câu hỏi khác tôi cũng thấy rất đắc ý. Một vị người Tây Phương hỏi thêm về cách thức hội nhập của Phật Giáo vào xã hội phương Tây. Bình thản Ngài trả lời rằng : đừng bao giờ nhìn vào văn hóa dân tộc đó mà hãy nhìn vào chính đạo Phật. Hay thay, đạo Phật ra đời hơn hai ngàn năm ở Ấn Độ, không chỉ cho người Ấn Độ mà cho mọi loài chúng sanh trên trái đất này. Ngày nay đạo Phật đã dấn bước toàn cầu hóa, đã có mặt khắp nơi trên toàn quả địa cầu này, từ miền đồng bằng Châu Á đến cả vùng cát nóng sa mạc Sahara, từ Châu Mỹ La Tinh đến cả khu vực vùng Vịnh Cận Đông dầu mỏ, ở cùng khắp mọi nơi. Mở tâm vô phân biệt là thấy ngay Phật Giáo là Phật Giáo, không có biên giới, không có rào ngăn giữa những người con Phật.

Nhìn Ngài Đạt Lai Lạt Ma và Hòa Thượng Như Điển lúc nảy kẻ trước người sau đi vào Chánh Điện và sau đó đi vào phía nhà Tổ, tự nhiên tôi nghĩ chắc Ngài đến đây trước để thăm Phật Tử Việt Nam và Chùa Viên Giác, nhưng sau là thăm Hòa Thượng Như Điển, như một người đến thăm một người quen – như có lần ở Ấn Độ Ngài nói : “Tôi có quen biết vị này – I know him“.

[Năm]

Thù Thắng.

Tám tuần đã qua. Đóa hoa cúc vàng tôi nhặt từ pháp tòa mang về nhà giờ đã khô queo. Sợi chỉ đỏ là quà tặng của Ngài hôm đó tôi treo lên tấm hình Phật trên bàn viết gió bay phất phới nhẹ như vẩy đùa với tôi (lý ra là phải đeo vào cườm tay nhưng tôi sợ hư uổng nên treo ở đó). Bây giờ ở đây trời đã vào thu, lá rụng nhiều, hơi se lạnh. Tôi loay hoay cả cuối tuần chuẩn bị một ít công việc vì còn một tuần nữa thì nghỉ làm để đến Bảo Quang dự tuần lễ Phật Thất niệm Phật A Di Đà. Vô tình, Khóa Huân Tu lần này nằm giữa ngay hai buổi lễ kỹ niệm người quá cố của Cơ Đốc Giáo, tuần trước là Lễ Allerheiligen của Thiên Chúa và tuần sau của Khóa Huân Tu là Lễ Totensonntag của Tin Lành. Tôi không biết dịch ra tiếng Việt là gì, chỉ biết hai lễ này là hai buổi lễ để người sống nghĩ về và cầu nguyện người chết như lễ Tảo Mộ của ta. Một sự trùng hợp lý thú. Huân Tu Phật Thất là Tu Chuẩn Bị cho đoạn đường ngaysau khi chết. Nhớ khóa tu năm trước Thầy Hạnh Giới có đọc cho nghe một câu trong sách của một vị Lạt Ma Tây Tạng : Cái chết sẽ là bước ngoặc quyết định tương lai chúng ta. Mới nghe choáng váng, ngẩm đi nghĩ lại thấy thật chí lý - người đời ai biết?

***

Buổi chiều bách bộ, hoàng hôn còn vương vài sợi nắng. Tôi bước chậm đều trên đường. Hai tay cho vào trong túi áo khoác - để đở lạnh, cố tránh không đạp lên những chiếc lá khô trên đường – cho khỏi đau (!). Tôi yên lặng bước đi. Từng bước, từng bước tới, thấy đời mình ngắn đi một chút.

Không hẹn mà đến,
không chờ mà đi.

Bốn mùa thay lá, thay hoa,

thay mãi đời ta.

(nhạc Trịnh Công Sơn)

tôi cất tiếng hát nhỏ đủ nghe và lại lặng thinh bước tiếp.

Kiel, lập thu - 11.2013

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2015(Xem: 7066)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7076)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 7719)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 14294)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 11570)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
17/01/2015(Xem: 8577)
Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp) Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị.
16/01/2015(Xem: 21548)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9413)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 7607)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
14/01/2015(Xem: 7667)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]