Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giờ học khó quên

16/08/201319:04(Xem: 7905)
Giờ học khó quên

vo-hong_2

GIỜ HỌC KHÓ QUÊN

Kính tặng nhà văn Võ Hồng, Nha Trang


Từ năm 1955-1975, những ai học tại trường Trung Học Bồ Đề Nha Trang nói riêng ít nhiều gì cũng được ngắm nét chữ tài hoa, bay bướm; bài giảng ngắn gọn, hàm súc và cốt cách phong lưu, nho nhã của thầy Võ Hồng. Chúng tôi thường kháo nhau: “Kim Trọng hào hoa đến thế là cùng.”

Thầy thường dạy ba môn: sinh vật cho học sinh đệ nhất cấp, nay là phổ thông cơ sở, Việt văn và Pháp văn cho đệ nhị cấp, tức phổ thông trung học, nhưng hình như Thầy thích dạy môn sinh vật nhất. Hẳn là Thầy muốn dành thì giờ cho việc sáng tác văn học. Thầy không những là nhà văn nổi tiếng, rất được độc giả hâm mộ, mà còn là một nhà giáo uyên bát, kinh nghiệm, nghiêm túc và suốt đời tận tụy với sự nghiệp giáo dục. Những tác phẩm văn học của Thầy cũng không ngoài mục đích giáo dục: tán dương cái hay, phê phán cái dở một cách tế nhị, khiêm tốn, nhẹ nhàng…

Những tiết học sinh vật với Thầy thì thật tuyệt vời. Thầy trò làm việc ở lớp lúc nào cũng hài hòa và dung nhiếp như nước với sữa. Thầy dạy thoải mái, ít ghi chép nhưng học sinh nắm được nội dung cơ bản và về nhà học sách giáo khoa. Bài giảng của Thầy thường là những nét vẽ kỳ diệu: khi chấm phá trào lộng, lúc đậm đà sâu sắc, tất cả thể hiện vẻ đẹp thanh lịch và nội lực thâm hậu của Thầy. Cứ nhìn Thầy cắp viên phấn bằng hai ngón tay trỏ và giữa và rồi đi những nét bay bướm, khi hoa lá, côn trùng; lúc cơ bắp, cân cốt từ trái sang phải trên bảng là chúng tôi bắt đầu rọ rạy, liếc nhìn nhau, nhéo nhau và mím miệng để khỏi cười ra tiếng. Thầy chỉ tốn năm, mười phút thao diễn điệu nghệ rồi ngồi vào bàn – trông nghiêm nghị như một quan tòa nhưng hiền hòa như ông Bụt – với ngòi bút lăn đều trên trang giấy. Còn đám học trò chúng tôi tha hồ mà trề môi, méo miệng, tẩy xóa, cà quẹt…, cố chạy theo Thầy với tâm trạng khẩn trương, sảng khoái.

Một hôm dạy bài thân thể người ta, để học sinh có cái nhìn tổng hợp trước khi đi vào nội dung chi tiết, Thầy vẽ khái quát nhưng cực kỳ sinh động. Thứ nhất là một bé gái bụ bẫm, dễ thương, đang ngồi “bô”, hai tay chống cằm với khuôn mặt thụng xuống. Thế là các cô cúi mặt với nụ cười lỏn lẻn, còn các cậu thì ngẩng đầu, gật gù lia lịa với hai tay ôm miệng. Thứ hai là một thiếu nữ có khuôn mặt trái xoan, dáng người thon thả, tay vịn vành nón bài thơ, chân đi guốc cao gót với tà áo dài nghiêng nghiêng phất phơ theo gió trông hấp dẫn và quyến rũ làm sao! Các cậu đã quá, hai tay nắm lại giật giật, còn các cô thì … hồn đang theo mơ! Thứ ba là bà cụ gầy guộc, hóm hém với búi tóc củ hành và cái miệng móm chút xíu đưa tay che trán, nheo mắt nhìn như thể đang vọng trông một người thân sắp về, hay đang tìm một cái gì quý hiếm đã mất. Học sinh bấy giờ lặng yên phăng phắt, căng mắt dõi theo từng nét vẽ đậm nhạt tài tình nhưng “buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Và thứ tư là bộ xương người thuần túy với những hốc mắt, hốc mũi, hốc miệng sâu hoắm; răng cái còn cái mất; gân cốt hiện ra ngoằn ngoèo, nhìn phát ớn! Các cậu các cô trông rợn người, ngơ ngác; còn nhóm Tăng sinh thì vô cùng thán phục bàn tay đạo diễn thâm trầm: bốn hình ảnh, một kiếp người với bốn chặng đường: sanh-lão-bệnh-tử hay thành-trụ-hoại-không đang quay cuồng theo nghiệp cảm duyên khởi trong cơn lốc vô thường, vô ngã, sinh diệt và biến dị. Thầy chỉ phát họa đôi nét mà đáp ứng được nhu cầu kiến thức và thẩm mỹ cho học sinh cả lớp, Tăng cũng như tục. Đỉnh cao của nghệ thuật giảng dạy là thế.

Có lần tiếp xúc với thầy Đoàn Văn Điện, Phó Giáo Sư Tiến Sĩ, Hiệu Trưởng Trường Đại Học Dân Lập Lạc Hồng, Biên Hòa, tôi hỏi: “Thầy người Phú Yên, vậy thầy có biết thầy Võ Hồng không?” “Biết chứ! Thầy của tôi.” Thầy Điện nói một cách hãnh diện và trịnh trọng. “Ngày về miền Nam, tôi tìm gặp Thầy tôi liền. Chín năm kháng chiến chống Pháp, thầy trò chúng tôi đã từng ăn khoai lang, khoai mì thay cơm và dắt nhau di tản từ lũy tre này đến hầm mương nọ.” Nghe nói khoai mì tôi mới sực nhớ thảo nào có lần Thầy vẽ cây mì, cây bắp và cây đu đủ trên bảng, nhưng tôi thấy cây mì đẹp hơn cả, đẹp từ gốc đến ngọn, đẹp từ cọng đến lá. Không biết dân miền Trung (Bình Định) chúng tôi thấy cây mì đẹp, hay phải chăng tình cảm quê hương của Thầy đã được gởi gắm vào lá khoai mì!

Rồi một hôm, nhân lúc gác thi môn dịch Việt-Anh tại Đại học Hùng Vương, thấy trong đề thi “Thủ Thỉ Với Dòng Sông” có đoạn: “Mỗi dòng sông khi gặp trở ngại, khó khăn đều luôn đi vòng để tránh chứ không bao giờ chịu lùi.” (Trầm Tư – Võ Hồng). Tôi cảm thấy vui vui, vì ngót ba mươi năm đó đây nối bước chân Thầy, nay lại tình cờ gặp Thầy giữa lớp học với bầu không khí trang trọng. Tôi chợt nhớ cái gì trên đời rồi cũng tan biến theo quá trình sanh-trụ-dị-diệt như Thầy đã có lần trình bày theo phong cách vô ngôn, chỉ có tâm hồn trong sáng, nhân cách cao thượng được thể hiện qua lời hay ý đẹp thì tồn tại với đất trời miên viễn.

Ôi! Vị Lão Sư (chữ Sư này, theo cách viết Hán ngư,õ có bộ khuyển phía trước) khiêm cung, dung dị kia nay ít có dịp qua lại sườn đồi Hải Đức Nha Trang để ngắm nhìn màu hoa thanh long, phượng vĩ, hoa khế, hoa xoài… hay hít thở hương vị ngọt ngào của hoa lài, hoa sứ, nhưng âm hưởng của Lão Sư cứ mặc nhiên trải dài, vang vọng cùng khắp đồng ruộng bao la, núi rừng trùng điệp; cứ mỗi lúc một từ từ thấm đượm vào lòng người lớn giữa quê hương.

Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2001, kính gởi đến thầy Võ Hồng cùng tất cả các thầy cô Bồ Đề và Võ Tánh Nha Trang năm xưa lời chúc mừng khánh thọ, an khang, vui vẻ như nụ cười lành của đức Từ Phụ trên đỉnh đồi cao.

(Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ, số 94, ngày 14/11 Mừng ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 – 11 – 2001)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2019(Xem: 6949)
Trong Phật giáo có hai loại thực tập căn bản Hiển Giáo và Mật Giáo. Cho đến giờ, chúng ta đang thảo luận về sự thực hành Hiền Giáo. Mục tiêu đặc biệt của Mật Giáo là để cung ứng một con đường nhanh hơn vì thế những hành giả đủ điều kiện có thể phục vụ người khác một cách nhanh chóng hơn. Trong Mật Giáo năng lực của quán tưởng được khai thác để hành thiền trong một sự thực hành gọi là bổn tôn du già. Trong sự thực hành này ta tưởng tượng:
27/05/2019(Xem: 6758)
Vào mỗi lần đại gia đình nhà tôi khi có dịp gặp mặt đầy đủ vào những ngày giỗ lễ lớn quan trọng và phù hợp với School holiday, tôi thường lắng tai nghe các con tôi trao đổi kinh nghiệm sống khi tiếp xúc và xã giao với các bạn bè hay trong công việc của chúng ( hai đứa con tôi mỗi gia đình ngụ tại hai thành phố khác nhau của Australia- Sydney / Melbourne) .
25/05/2019(Xem: 7997)
SỐNG TRỌN VẸN NHƯ THẾ NÀO Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
20/05/2019(Xem: 8264)
Đến tận giây phút này, giờ phút ngồi trước máy tính gõ bàn phím, khi tóc đã bạc sương vào tuổi sáu mươi của đời người ngắn ngủi, tôi vẫn còn nhớ như in buổi học môn Văn của lớp 9/5. Thầy, tôi nhớ không lầm là thầy dạy thế, tạm thời đứng lớp thay cho thầy Xuân mới chuyển công tác, nên cái duyên kết dính với lớp của tôi rất mỏng manh. Buổi học đó thầy giảng đến bài “Các thể loại Thơ”, cứ mỗi thể thơ nhắc đến đều được thầy đưa ví dụ một bài thơ tiêu biểu, và đến thể thơ “Ngũ ngôn” thì thầy đọc ngâm: “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua…”
17/05/2019(Xem: 7265)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8606)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 17030)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8953)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6659)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5884)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]