Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 14: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7094)
Chương 14: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XIV

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Thời mạt pháp niệm Phật dễ thành tựu

Đức Phật là bậc thông suốt Tam Giới. Ngài dạy rằng: ”Thời đại chánh pháp giải thoát thành tựu. Thời đại tượng pháp thiền định thành tựu. Thời đại mạt pháp niệm Phật thành tựu”. Những lời này chúng ta đã hiểu biết rõ ràng. Thời đại mạt pháp ngày càng xa cách Thánh nhân. Vận mạng pháp môn ngày càng suy giảm. Căn cơ chúng sinh ngày càng châm lụt, phước báo mong manh, trí tuệ thô thiển, tội nghiệp sâu nặng, không đủ tư cách để nói đến trì giới và thiền định. Chỉ còn nương tựa vào nguyên lực đại từ đại bi của đức A-di-đà. Nương tựa vào một câu Thánh hiệu hết sức cao thượng, hết sức đơn giản và chân thật, mới có thể vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi

2. Giới luật là căn bản

Thời chánh pháp khi Phật còn tại thế, Thánh Hiền lúc ấy phước huệ đều vượt xa bọn phàm phu chúng ta trong thời mạt pháp này. Phật dạy: ”Trì giới mới có thể thành đạo nghiệp”. Như đây có thể biết, giới luật là căn bản của tất cả giáo Pháp Phật dạy. Không có giới luật mà tu hành cũng như xây lầu trong hư không, hết sức nguy hiểm bởi sẽ có ngày sụp đổ.

3. Cố gắng giữ gìn giới luật

Chúng ta là những chúng sinh sinh vào thời mạt pháp. Nhắc đến giới luật, chúng ta không có chút tư cách gì để nói. Chúng ta từ sớm đến chiều hoặc nhiều hay ít, nặng hay nhẹ, do cố ý hay vô tình, đều có phạm đến giới luật đã thọ. Phải ôm lòng hổ thẹn và thành tâm sám hối, đem khả năng để trì giới, xa lìa cảnh trần ngũ dục mê hoặc bên ngoài. Cần phải thanh tịnh đời sống sinh hoạt của chúng ta. Thường xuyên quán chiếu và xét lại bản thân, đem giới luật làm tiêu chuẩn để áp dụng cho đời sống. Bởi khi đã phạm giới, tội lỗi ta sẽ nhận chịu. Ngược lại, công đức trì giới thù thắng sẽ thừa hưởng. Cho nên, trì một phần giới luật được một phần lợi ích, trì mười phần giới luật được mười phần lợi ích. Chúng ta hổ thẹn vì tự mình căn cơ thấp kém, chưa thể trì giới được viên mãn, nên phải thành thật khẩn thiết sám hối, dốc hết tâm ý niệm Phật cầu thần lực của Phật và Bồ-tát gia hộ, để mong với giới luật có phương hướng thực tế và khả năng trì giới được viên mãn.

4. Phương pháp đốt sáng đèn tâm

Có nhiều người tiêu phí rất nhiều tiền để cho việc đốt đèn “ Quang Minh Đăng” ở bên ngoài. Như vậy không có ý nghĩa gì cả. Chúng ta cần đốt đèn nên khéo đốt sáng đèn tâm của chúng ta. Tâm là ngọn đèn rất sáng, nên phải khéo léo và nỗ lực để đốt sáng ngọn đèn ấy. Đây là việc cúng dường lớn lao và tốt đẹp. Công đức ngọn đèn tâm sánh với tiền tiêu phí ngàn vạn để đốt đèn bên ngoài, còn cao hơn gấp vạn lần.

5. Danh và lợi

Danh và lợi là hai lưỡi kiếm rất ác độc và mãnh liệt, thường theo đuổi ta trên con đường học Phật. Từ xưa đến nay, có biết bao anh hùng hào kiệt và tài tử cao nhân nhưng vẫn tiêm nhiễm đến danh lợi, để rồi tới tấp trúng tên ngã ngựa, phát độc mạng vong, uổng phí tâm huyết một đời khổ sở nỗ lực tu hành. Giá phải trả vì tham danh cầu lợi là một đời để qua suông, vẫn ở trong vòng luân hồi thọ quả báo khổ sở không lúc nào hết.

6. Cẩn thận đề phòng danh lợi

Người học Phật nên cẩn thận đề phòng danh lợi. Phải xa lìa danh lợi, luôn giám sát và quán chiếu nội tâm mình. Nhất thiết không nên tham cầu danh lợi. Phải triển khai tới cùng và đem việc lớn sinh tử của chính mình đặt nó ngay sau gáy. Nếu tu hành chỉ vì thủ đoạn và mượn cớ để truy cầu danh lợi, hạng người này trên đời chỉ có tiếng vỗ tay tán xưng của kẻ dua nịnh. Cuối cùng việc giải thoát vãng sinh về Tây Phương không đủ tư cách nói đến.

7. Một lời khai thị bình thường chân thật

Một câu nói quan trọng ảnh hưởng đến cuộc đời của Đại sư Liên Trì, đó là lời khai thị cuả Đại sư đến khắp tất cả: ”Bạn có thể giữ tròn bổn phận, không cần tham cầu danh lợi, đừng để tâm phan duyên, phải biết rõ ràng nhân quả và nhất tâm niệm Phật”. Bấy giờ, những hành giả đến cầu chỉ dạy, đối với lời khai thị bình thường không có gì là lạ này, phần nhiều còn cười lớn khinh miệt, không cho là đúng, lại còn cho rằng ngoài mấy lời này chẳng biết nói gì khác. Ngàn dặm ngưỡng mộ, đến cầu cứu một vị tiên tri thức trong thiên hạ khai thị mà chỉ nghe được mấy câu không có gì là huyền diệu. Lời khai thị không có giá trị nửa văn tiền. Nhưng Đại sư Liên Trì có đại trí tuệ, biết được mấy lời này dung hoà khắp tất cả. Đại sư trọn đời tha thiết hành trì, thể nhận đến kho báu chân thật. Phải biết, đây là chỗ cao minh của Đại sư. Đại sư không bao giờ nói huyền nói diệu, hay nói cho cao để hơn hết hậu học. Chỉ với lòng chân thật, đem yếu điểm công phu rất gần và rất thực do mình thể nghiệm qua mà khai thị, để cho hàng hậu học thật sự theo lời khai thị này mà tu hành đạt được lợi ích. Đây là do Đại sư Liên Trì một đời hết sức tuân thủ, không giám quên, nên sự thành tựu vượt hẳn người phàm.

8. Biển danh lợi

Trong nhà Phật có lưu truyền câu chuyện thế này: đứng bên bờ sông, nhìn vô số thuyền bè qua lại, đại Lão Hoà Thượng nói với tiểu Sa-di đứng bên cạnh rằng: ”Từ xưa đến nay, thuyền đi thuyền đến, không bao giờ hết. Người trên thuyền này đang theo đuổi và bận rộn chỉ có hai việc. Đó là danh và lợi, có thế mà thôi!”. Chúng ta là hạng phàm phu sống chết trên biển danh lợi, lúc nào mới có thể chân thật khám phá, thật sự buông xuống và thành tâm niệm Phật cầu sinh Tây Phương Cực Lạc? Từ nơi chỗ lang thang phiêu bạt, quay về hương Cực Lạc, không còn trôi nổi trên biển nghiệp sinh tử luân hồi

9. Xa hẳn danh lợi

Danh và lợi làm người đời mê muội. Chúng ta không những thờ ơ với danh và lợi mà phải tiến thêm một bước xa hẳn danh lợi. Xem danh lợi như nước lũ và thú dữ hại người. Vì căn cơ chúng ta châm lụt, sức định quá yếu, chống chọi không lại với danh lợi mê hoặc. Dùng đạo lý đối trị, chỉ còn cách là xa hẳn danh lợi. Đối với một chút hành vi, tiêm nhiễm đến màu sắc danh lợi, nhất định phải tránh xa. Như thế mới không đến nỗi bị mê hoặc điên đảo, quên mất mục tiêu chính đáng là học Phật để giải thoát sinh tử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 5007)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5231)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8014)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6152)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5633)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4272)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9198)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5738)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5745)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]