Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:03(Xem: 13437)
Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

273lientricanhsach


Mục lục

Lời tựa
Chương I: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1. Buông xuống
2. Xả
3.Thực tiễn
4. Nói một thước, chẳng bằng thực hành một tấc
5. Nuôi dưỡng thành thói quen tốt niệm Phật
6. Phóng sinh”tam thí” đều đủ
7.Phóng sinh trả lại nợ giết hại từ trước
Chương II: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1. Chỉ nương pháp niệm Phật sẽ được qua biển sinh tử
2. Nguyên nhân Như Lai ra đời
3. Người niệm phật có đại phước báo
4. Phước báo trời, người
5. Giới-Định-Tuệ
6. Lấy giới làm thầy
7. Phóng sinh là bậc nhất
8. Ra sức thực hành giới không giết hại và phóng sinh
9. Người học Phật nên ăn chay trường
10. Ăn thịt giống như uống thuộc độc
Chương III. LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1. Không nên có ý bày tỏ giữ bản quyền
2. Thuyết pháp cần đơn giản, rõ ràng
3. Sửa đổi thói quen xấu
4. Phản tỉnh
5. Cẩn thận lựa chọn đạo tràng
6. Linh Sơn chỉ tại trong tâm
7. Làm tốt bổn phận
8. Thành khẩn và nề nếp làm tròn bổn phận
9. Nhìn rõ, buông xuống
Chương IV: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Lo việc nhà mình, không lo việc nhà người
2. Kiểm điểm chính mình
3. Cải vỏ không ( nói hay làm dở)
4. Ăn thịt phạm giới sát sinh
5. Khuyên nhắc mình ăn chay
6. Người có trí tuệ
7. Giác ngộ sẽ biết được sai lầm
8. Tro tàn
9. Tâm cung kính chính là sự thành thật
10. Cẩn thận từ lúc ban đầu
Chương V: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Chọn pháp môn thích hợp
2. Luôn luôn siêng năng lau chùi
3. Phật với Phật mới có thể biết rõ
4. Thiền thâm diệu vô thượng
5. Thần chú thật giản đơn và chân thật
6. Niệm Phật bằng với việc tụng hết thảy kinh
7. Niệm Phật không thể nghĩ bàn
8. Niệm Phật là hạnh chánh
9. Một môn thâm nhập
10. Học Phật chính là sửa đổi thói quen xấu
11. Có quả ắt có nhân
Chương VI: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Niềm tin sâu
2. Nguyện cấp thiết
3. Ra sức thực hành
4. Tự hỏi lương tâm
5. Phát tâm Bồ-đề
6. Cần thiết ghi nhớ “ tám chữ”
7. Thành thật niệm Phật
8. Lấy giới làm thầy
9. Giới chính mình không phải giới người khác
10. Tấm gương soi
Chương VII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Niềm tin là nguồn đạo, là mẹ của các công đức
2.Quay lại cầu nơi mình
3. Không nên tự tay giết hại
4. Được thành hạnh nhẫn nhục
5. Bệnh chấp Lý bỏ Sự
6. Sống chuyển thành chín, chín chuyển thành sống
7. Như người gần hương thân có mùi hương
8. Giáo dục từ gia đình
9. Xả được
Chương VIII. LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Nắm lấy cơ duyên
2. Ngày nay đã qua
3. Vô thường
4. Không nên chấp trước
5. Như mộng, huyễn,bọt nước, bóng ảnh
6. Tức một tức ba
7. Cẩn thận lựa chọn pháp môn
8. Nương tự lực hay nương Phật lực?
9. Niệm Phật là cứu cánh chân chánh
10. Muôn thứ bệnh đều từ sát sinh đưa đến
Chương IX: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Tự tánh tự độ
2. Phát tâm lâu dài
3. Bí quyết niệm Phật
4. niệm Phật lớn tiếng
5. Giới là gốc vô thượng Bồ-đề
6. Căn bản của việc học Phật
7. Tam vô lậu học
8. Giới-Định-Tuệ
9. Bàn luận việc binh trên giấy là lời nói suông
10. Cách hành trì của người học Phật
Chương X: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Nhẫn nhục
2. Quán chiếu chính mình
3. Xả
4. Sám hối
5. Tội từ tâm khởi, đem tâm sám hối
6. Lễ lạy 88 vị Phật
7. Lễ Phật sám hối
8. Răn nhắc và thúc giục
9. Chớ quên tâm ban đầu
10. Nội công và ngoại công
Chương XI: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Ăn chay, phóng sinh
2. Bài tập quan trọng
3. Thường xuyên quán chiếu chính mình
4. Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả
5. Nhà mình chính là đạo tràng
6. Người học Phật gương mẫu
7. Khó hành đạo, dễ hành đạo
8. Sự quan trọng của thiện tri thức
9. Không nên phát nguyện suông
10. Nền tảng của sự tu hành
Chương XII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Hạnh đại hiếu ở thế gian
2. Đức khiêm tốn tự hổ thẹn
3. Mục đích của sự tu hành
4. Tự thanh tịnh ý mình
5. Không có chỗ trụ tâm
6. Vô thường
7. Nương pháp chẳng nương người
8. Chỉ và Quán
9. Cần học làm Phật, không cần giỏi Phật học ( lý thuyết)
10. Tức tâm tịnh độ
Chương XIII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Trì giới
2. Thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối
3. Hổ thẹn
4. Ngã mạn
5. Hữu lậu
6. Phạm giới thành hữu lậu
7. Kiểm nghiệm lại lỗi lầm
8. Giới luật
9. Siêng năng hành pháp lễ Phật sám hối
10. Phật pháp suy vi
11. Khiêm tốn tự xét mình
Chương XIV: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Thời mạt pháp niệm Phật dễ thành tựu
2. Giới luật là căn bản
3. Cố gắng gìn giữ giới luật
4. Phương pháp đốt sáng đèn tâm
5. Danh và lợi
6. Cẩn thận đề phòng danh lợi
7. Một lời khai thị bình thường chân thật
8. Biển danh lợi
9. Xa hẳn danh lợi
Chương XV: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Niệm Phật được qua sinh tử
2. Niệm phật càng về sau càng quan trọng
3. Mạng sống có hạn
4. Biển bổn nguyện của Phật Di-đà
5. Thành thật
6. Thành thật niệm Phật
7. Đệ tử Phật chân chính
8. Học Phật chân chính
9. Đối tượng của học tập
10. Thật thà là quý, bình thường là phước
Chương XVI: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1. Đầy đủ lòng tin và tâm nguyện
2. Nói nhiều nhưng làm ít
3. Người có tín nguyện chân thật rất ít
4. Kiểm nghiệm lòng tin và hạnh nguyện
5. Nên phát nguyện
6. Phát nguyện
7. Nhân duyên căn lành và phước đức
8. Quả đất
9. Pháp môn tâm địa
Chương XVII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Hạnh phàm phu thấp kém
2. Giặc vô thường cuối cùng phải đến
3. Uốn nắn chính mình
4. Một câu niệm Phật nhiếp hết tất cả
5. Niệm Phật chính là thiền
6. Niệm Phật chính là mật
7. Niệm Phật chính là giáo
8. Niệm Phật chính là giới-định-tuệ
9. Đại Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền đều niệm Phật
10. Pháp môn đặc biệt
11. Bình thường rất cao, thành thật rất diệu
12. Lấy thân làm phép tắc
Chương XVIII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Tượng Phật chính là đức Phật
2. Hiểu và hành
3. Không hiểu biết nhưng có thực hành
4. Có hiểu biết không có thực hành
5. Ấn chứng của sự tu hành
6. Cần phải đích thân thực hành
7. Niệm Phật tức là Giới-Định-Tuệ
8. Đại pháp thọ dụng đời nay
9. Lấy đó làm gương
10. Phép tắc của sự tu hành
11. Bình thường, thật thà
Chương XIX: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Phật pháp chú trọng ở thực hành
2. Ăn thịt bằng với tội giết hại
3. Người ăn thịt đoạn dứt hạt giống tình thương
4. Ăn thịt cầu công đức tất chẳng thành tựu
5. Chẳng biết tốt xấu
6. Tu pháp niệm Phật là vững vàng nhất
7. Tham tiền chẳng phải việc dễ
8. Hãy nhanh quay về niệm Phật
9. Nghiệp chướng
10. Nỗ lực tiêu trừ nghiệp chướng
11. Phật pháp tiêu trừ nghiệp chướng
Chương XX: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Then chốt thành công của sự tu hành
2. Gặp thiện tri thức là nhân duyên lớn
3. Chuyển mê thành ngộ
4. Mắt mù dẫn người mù
5. Phương pháp phân biệt thiện tri thức
6. Nghĩ cho kỹ xem cho rõ
7. Bức tranh vẽ thiện tri thức đẹp nhất
8. Nên làm người mắt sáng
Chương XXI: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Việc đại ác ở trần gian
2. Việc thiện lớn nhất trên đời
3. Hết sức vô lý
4. Được không bằng mất
5. Lựa chọn
6. Hai điều kiện quan trọng nhất
7. Phóng sinh tức trả tự do cho chư Phật vị lai
8. Phóng sinh và nước từ bi Tam-muội
9. Đạo lý phóng sinh rất sâu
10. Không giết hại, phóng sinh; việc đơn giản, lý lại sâu
11. Phật pháp là môn giáo dục giác ngộ
Chương XXII: LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
1.Một câu danh hiệu Phật
2. Đại si cuồng
3. Quy định thời khoá
4. Ngừng và diệt tham, sân, si
5. Không giết hại, nên ăn chay
6. Ăn thịt là thói quen rất xấu
7. Hoàn tất vào một lần này
8. Phóng sinh đền lại nợ giết hại từ trước
9. Ăn thịt và hữu lậu
10. Hai việc cùng tiến hành
11. Ăn thịt là đại ác
12. Phóng sinh là làm việc thiện lớn

Lời tựa

Thời đại mạt pháp, các bậc Thánh Hiền ngày càng xa. Phật pháp suy vi, tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng. Tà trí, tà kiến đầy khắp thiện hạ. Đáng tiếc cho chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng, huệ cạn phước mỏng, người học phật đi trên đường chánh rất ít, kẻ chìm đắm lại nhiều. Thậm chí rất nhiều người thêm nhiễm tri kiến mà mị, ra vào làm con cháu nhà ma, gieo xuống đời vị lai nhân khổ địa ngục mà không tự biết. Xét kỹ nguyên nhân này, chính là không gặp thiện tri thức, không tìm đúng đường chánh, tu hành chẳng như pháp không thể đắc lục, mất hết thời gian tiền của và tâm lực, cuối cùng không được một chút lợi ích thực của Phật pháp.

May mắn biết bao, chúng ta ở vào thời mạt pháp, còn có thể gặp được một vị thiện tri thức hiếm có. Đây chính là pháp sư Viên Nhân, là vị Đạo sư của chúng ta. Sư phụ đã 90 tuổi, ở ẩn nơi am trong núi, tu hành thanh tịnh đến nay hơn 30 năm. Trên sự tu hành, sư phụ cẩn thận tuân theo lời dạy của Phật Đà, chính là hết lòng chân thật chấp trì một câu Thánh hiệu Nam mô A-di-đà-phật, đồng thời lấy pháp môn tịnh độ hành trì và giáo hoá mọi người. Khuyên khắp tất cả mọi người đến hỏi han về Phật pháp là chuyên nhất niệm Phật cầu sinh Tây Phương, tuyệt đối không xen tạp và mơ hồ.

Về mặt hành trì, sư phụ sinh hoạt hàng ngày có thể tỉnh thì tỉnh, có thể tiết kiệm thì tiết kiệm, tất cả đều hết sức đơn giản và mộc mạc. Sư phụ yêu cầu chúng ta lấy giới làm thầy. Chỗ chỗ nghiêm ngặt giữ vững giới luật, nơi nơi lưu tâm cẩn thận để công đức của mình khỏi rỉ chảy mất. Sư phụ hết sức nhấn mạnh người niệm Phật cần nhanh chóng ăn chay, bởi vì ăn thịt chính là sát sinh. Mỗi ngày ăn thịt là đồng thời mỗi ngày phạm vào giới sát sinh. Kết oán mối thù truyền kiếp, tương lai báo ứng hết sức đớn đau, lại thêm trở ngại sự nghiệp lớn vãng sinh của chúng ta còn thiếu từ lâu vô biên vô lượng. Vả lại, việc phóng sinh chính là tích cực trả món nợ từ đời quá khứ đến nay do chúng ta giết hại vô số. Hơn nữa, trong qúa trình phóng sinh tâm từ bi của người học Phật thu được nhiều điều bổ ích, lại cùng với đông đảo chúng sinh kết duyên sâu rộng, hiện tại và vị lai đều có ảnh hưởng không thể nghĩ bàn.

Sư phụ nhấn mạnh Phật giáo là một cách thức giáo dục thực tiễn. Chỉ nói mà chẳng luyện tập một chút cũng không đến chỗ lợi ích thực sự. Sư phụ dùng thân giáo thị hiện một vị tu hành mẫu mực, chân thật. Không nói lời cao xa, nghiên cứu thực tiễn, dạy bảo tất cả người học Phật phát tâm lâu dài. Đem Phật pháp thật sự thực hiện trong sinh hoạt của chúng ta. Bản thân mình ra sức thực hành, nỗ lực. Đó là người học Phật chân chánh.

Cuốn sách “Liên Trì Cảnh Sách” này là do đệ tử kết tập lời khai thị quý báu của sư phụ thường ngày, sắp xếp lại mà thành. Trong này chỉ rõ rất nhiều khuyết điểm vì lơ là mà chính chúng ta là người hiện tại học Phật thường phạm phải. Nguyên có thể đối với những người chân chánh có tâm tu hành, cần đời này liễu sinh thoát tử. Hy vọng mỗi một vị học Phật đều có thể nắm chắc và chính xác phương hướng tu hành, không đến nỗi điên đảo lầm loạn, luống uổng.

Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta. Chỉ nguyện những người cùng học Phật đều có thể chuyên tâm và hết sức ở nơi đây. Đối với sự nghiệp lớn vãng sinh của chúng ta, tất nhiên có ảnh hưởng quyết định và sâu xa.

Nam mô A-Di-đà Phật

Hội Phật giáo Liên Trì Công Đức

Kính ghi

THAY LỜI TỰA

Làm người, chúng ta nhiều hay ít đã được thọ nhận những lời giáo dưỡng hay lời nhắc nhở từ những bậc tôn trưởng đến trưởng thành, khôn ngoan và hiểu biết. Cha mẹ hay những người lớn quan hệ gia đình, với tình thương vì chúng ta mà răn nhắc chỉ bảo, mong chúng ta thành người hiền lành đạo đức.

Trong đạo cũng vậy, những lời của bậc thầy luôn dạy bảo sửa sai, nhắc nhở và thúc dục chúng ta, gọi là lời cảnh sách. Lời cảnh sách nói thẳng, mạnh mẽ, không trong văn chương; cũng có khi chỉ rõ lỗi lầm của người học và những hiện tại của hiện thời mà chúng ta đang chứng kiến. Lời cảnh sách có mục đích cảnh tỉnh và thôi thúc người học đạo nỗ lực tu tiến. Chỉ có người tu biết tu sửa mới cảm được những lợi ích trong lời cảnh sách của tổ sư.

Huynh đệ chúng tôi cũng vậy, khi đọc lời cảnh sách, thấy lời lẽ mộc mạc nhưng chân thật, trong đó luôn thể hiện tấm lòng thương yêu của Tổ sư như chính tình thương của người cha nghiêm nghị.

Cảm được lòng từ của Tổ sư, chúng tôi không ngại kiến thức hẹp hòi, phát nguyện dịch ra và ghi thành sách, mong chia sẻ đến những người có duyên.

Văn trong cảnh sách không như những tác phẩm giàu chất văn chương hoa mĩ, nhưng không thiếu sự khuyên răn nhắc nhở mang tình thương của mẹ hiền. Lại nữa, biển Phật pháp bao la, có nhiều người muốn tu hành, không biết nên nghiên cứu từ đâu và thực hành thế nào để đạt được mục đích. Những lời dạy trong tập cảnh sách này có giá trị giúp cho bất cứ ai dù có trình độ Phật học như thế nào cũng đều có thể hiểu và áp dụng để giải thoát khổ đau ngay trong đời sống hiện tại.

Cuốn sách không dám so sánh với nhiều tác phẩm khác về chất lượng ngôn từ, nhưng sẽ là tấm bản đồ hữu ích cho kẻ lữ hành lạc lối trên đường trở về cố hương.

Chúng tôi với tâm thành kính nhớ ơn thầy tổ, chư thiện hứu trí thức, đàn na thí chủ, với tâm hổ thẹn kính dâng lên thầy chúng tôi duyệt cho và được thầy hoan hỷ. Chúng tôi rất vui kính gửi đến quý bạn hữu để kết duyên lành trong ngôi nhà Phật pháp.

Tăng chúng chùa Linh Ẩn

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/02/2021(Xem: 9173)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5546)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5437)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6191)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4748)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5334)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4924)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5836)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 5078)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9854)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]