Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 2: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7552)
Chương 2: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương II

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Chỉ nương pháp niệm Phật sẽ được qua biển sinh tử

Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”. Thời đại mạt pháp, căn khí chúng sinh ngu si yếu đuối. Không nương tựa vào sức đại từ, đại nguyện của đức Phật A-di-đà mà có thể đời này thành tự sự giải thoát sinh tử, trong ức ức vạn người khó có một. Vậy hãy cẩn thận tuân theo lời chỉ dạy của đức Phật. Xin khuyên các vị hãy thành thật niệm Phật, một cửa thâm nhập, bằng không thì khó lo xong việc lớn sinh tử!

2. Nguyên nhân Như Lai ra đời.

Đại sư Thiện Đạo nói rằng: ”Nguyên nhân Như Lai ra đời chỉ nói bản nguyện của Phật A-di-đà“. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tại đời ác năm trược nói pháp 49 năm, điều quan trọng nhất là dạy chúng ta niệm Phật một câu “Nam mô A-di-đà Phật", giới thiệu cho chúng ta pháp môn tịnh độ thù thắng, có thể một đời thành tựu việc giải thoát sinh tử.

3. Người niệm Phật có đại phước báo.

Người có thể nghe và tin đến được một câu Nam mô A-di-đà Phật này, họ đã nhiều đời nhiều kiếp đến nay tích luỹ bao nhiêu nhân duyên căn lành phước đức, mới có thể đời nay gặp nghe và thọ trì pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, người hay niệm Phật đều có phước báo lớn.

4. Phước báo trời, người

Đời nay nếu không niệm Phật cầu vãng sinh, tất cả sự nỗ lực chỉ là phước báo nhân thiên, không có cách gì đời nay thoát khỏi sinh tử, vẫn còn trở lại luôn hồi nơi sáu đường, quả thật đáng tiếc.

5. Giới-Định-Tuệ

Tu hành cần khéo léo trên pháp tu của chính mình mà hạ thủ công phu. Lục độ Vạn Hạnh nói đơn giản chính là ba chữ Giới-Định-Tuệ.

6. Lấy giới làm Thầy

Người học Phật cần phải lấy giới làm thầy. Tuỳ lúc tuỳ chỗ lưu ý sự hành trì của mình, có trái với giới luật của Phật hay không? Có giới hạnh liền có định lực, không đến nỗi bị danh lợi mê hoặc. Có định lực liền có trí tuệ, có thể phân biệt được chánh tà, phải, trái.

7. Phóng sinh là bậc nhất

Luật Đại Trí Độ nói rằng: ”Trong các tội, tội giết hại rất nặng; trong các công đức, phóng sinh là công đức bậc nhất”. Bởi vì tất cả các vật quý nhất của chúng ta là sinh mạng của chính mình. Cứu nó được, nó cảm kích được rất sâu. Do đó nên nói trong tất cả các tội, tội giết hại nặng nhất. Ngược lại trong tất cả các công đức, phóng sinh là công đức, phóng sinh là công đức bậc nhất.

8. Ra sức thực hành giới không giết hại và phóng sinh

Chúng ta mỗi người đều nên nỗ lực thực hành không giết hại và tu tập hạnh nguyện phóng sinh. Nói gọn lại, do thực hành giới không giết hại nên không tạo nghiệp giết hại, không chồng chất nên món nợ sinh mạng Phóng sinh chính là trả nợ, vì từ vô số kiếp đến nay chúng ta đã tạo ra chồng chất vô số món nợ sinh mạng

9. Người học Phật nên ăn chay trường

Kinh Lăng-già nói rằng: ”Ăn thịt bằng với tội giết hại”: Đúng vậy! Ăn thịt mỗi ngày đồng với mỗi ngày tạo nghiệp sát sinh. Vì thế người học Phật nên ăn chay trường. Kinh Đại Bát Biết-bàn nói rằng:”Phàm người ăn thịt đoạn dứt giống đại từ bi”. Ăn thị chính là không từ bi, đồng nghĩa với đoạn dứt hạt giống Phật đại từ bi nơi mỗi chúng ta.

10. Ăn thịt giống như uống thuốc độc

Ăn thịt giống như uống thuốc độc vì trong thịt có rất nhiều chất có hại. Lại nữa, khi con vật bị đồ tể giết hại, nó khủng hoảng và oán giận nên để lại trong thịt rất nhiều độc tố. Loại độc tố này đối với thân thể con người rất có hại. Bấy giờ chúng ta cần thân thể khoẻ mạnh nên không ăn thịt mà ăn chay thì rất hợp lý.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2013(Xem: 24242)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
10/12/2013(Xem: 19491)
Những người dân Tây Tạng thân mến của tôi, ở cả trong lẫn ngoài đất nước Tây Tạng, cùng tất cả những ai đang tu tập theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng và những ai đang có những nối kết với Tây Tạng và người Tây Tạng.
10/12/2013(Xem: 19940)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 24997)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
10/12/2013(Xem: 9857)
Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành.
09/12/2013(Xem: 7057)
Gia đình nghèo kia có ba người: Bố – Mẹ – và Con trai. Họ sống âm thầm và bình lặng trong một thôn làng hẻo lánh, người Bố đi làm thuê để kiếm cơm gạo nuôi gia đình, người mẹ lo việc bếp núc, trồng mấy luống rau, và chăm sóc con. - Một buổi trưa hè nắng nóng, người mẹ trên đường từ chợ về nhà chợt nhặt được một trái cam ai đó đánh rơi bên đường, cơn khát và mệt nhọc dường như tiêu tan khi bà nghĩ đến miếng cam ngọt lịm và mọng nước. Nhưng nghĩ đến đứa con ngoan ngoãn chẳng mấy khi được ăn hoa trái thơm ngon, bà liền lau sạch trái cam và cất vào túi.
09/12/2013(Xem: 8750)
Giáo lý đạo Phật không chỉ nói về những vấn đề “xuất thế”, mà Đức Phật cũng đã rất chú trọng về vấn đề “nhập thế” - hoàn thiện nhân cách trước khi đạt được thánh cách - giúp cho tất cả chúng ta một phương pháp ứng xử phù hợp với đạo lý làm người, tạo nên một nhân cách sống. Nhân cách sống đó, dù bất cứ ở đâu và bất cứ thời điểm nào, cũng có thể ứng dụng và mang lại những kết quả tốt đẹp...
09/12/2013(Xem: 8878)
Có thầy trò một nhà kia làm nghề hát xiệc. Người thầy là một người đàn ông góa vợ và người học trò là một cô gái nhỏ tên là Kathullika. Hai thầy trò đi đây đó trình diễn để kiếm ăn. Màn trình diễn của họ là người thầy đặt một thanh tre cao trên đỉnh đầu mình, trong khi bé gái leo dần lên đầu cây rồi dừng lại trên đó, để người thầy tiếp tục đi trên đất. Cả hai thầy trò đều phải vận dụng sự tập trung tâm ý đến một mức độ khá cao, để giữ thăng bằng và để ngăn chặn tai nạn có thể xảy ra.
09/12/2013(Xem: 8145)
Tự thủy uyên nguyên, khắp các loài chúng sanh cùng với Phật đồng một tâm, tức cái tâm tánh tuyệt đối, chơn thường, vắng lặng, trong trẻo, tròn đầy, trùm khắp, không lay không động, không đến không đi, không sanh không diệt, vô thỉ vô chung, cực linh cực mầu, hay sanh các pháp. Do Phật tâm thanh tịnh, vắng lặng, huyền mầu, nhưng lại khéo sanh vạn pháp, nên cổ đức mới tạm mượn lời mà đặt tên, gọi cái tánh huyền mầu đó là "chơn không diệu hữu", tức từ cái tánh linh diệu trong trẻo, không một vật mà pháp pháp tuỳ duyên trùng trùng sanh khởi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]