Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03-Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp

27/02/201104:59(Xem: 6284)
03-Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp

TU LÀ CHUYỂN NGHIỆP
HT. Thích Thanh Từ

Biệt Nghiệp và Đồng Nghiệp

Nghiệp là thói quen huân tậptạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt trongcuộc sống của con người từ khi mở mắt chào đời cho đếnkhi nhắm mắt và những đời kế tiếp. Nếu người Phậttử tu mà không hiểu rõ về nghiệp thì khó mà ứng dụngtu hành để tới chỗ an lạc. Chữ nghiệp trong nhà Phật khôngcó nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấuđiều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt,nghiệp cũng có nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp riêngthì gọi là biệt nghiệp và nghiệp chung thì gọi là đồngnghiệp.

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phậtcó lấy một ví dụ để nói về nghiệp vọng kiến. Khi đóĐức Phật nói: Trước một cây đèn đang cháy, người nhặmmắt thấy chung quanh ngọn đèn có một cái vòng đỏ hoặcxanh. Còn những người mắt lành thì chỉ thấy ngọn đènđang cháy mà không thấy vòng đỏ hay vòng xanh. Cái vòng quanhđèn chỉ có đối với người bị nhặm mắt, đó là do nghiệpriêng của người bệnh mắt mà có thấy, còn người khôngbị nhặm mắt thì không thấy. Cũng vậy, trong cuộc sốnggiữa đời này tuy sống có mối liên hệ với nhau, nhưng mỗingười đều có mỗi cái nghiệp riêng của họ.

Ví dụ: Người có nghiệp chủngđồng bóng như thầy bùa, thầy pháp thì họ cho rằng có maquỉ. Còn người có tinh thần khoa học thực tế thì họ khôngtin có ma quỉ, họ chỉ tin những sự việc mà họ thấy vàchứng minh cụ thể. Vậy những sự việc mà một hay vài ngườithấy đó là nghiệp riêng của họ, vì họ chuyên làm cùngnghề cùng nghiệp thì họ hưởng ứng với nó. Cũng sự kiệnđó mà người khác không thấy là vì họ không có nghiệpđó.

Kinh Phật ví dụ: Có hai vợ chồngkia, chồng thì mù, vợ thì điếc, hai vợ chồng dắt nhau rachợ, chồng đàn vợ hát để kiếm tiền sinh sống. Hôm đócó một đám tang lớn đi qua, người chồng nghe tiếng trốngkèn bèn nói với vợ:

- Đám ma lớn quá, thổi kèn đánhtrống inh ỏi.

Người vợ cãi lại:

- Ông nói bậy, đâu có kèn trống,tôi chỉ thấy cờ phướn, chớ không nghe tiếng kèn trống.

Người chồng không chịu cãi lại:

- Bà nói bậy, tôi chỉ nghe thấykèn trống, chớ đâu có thấy cờ phướn.

Có như thế mà hai ông bà cãi lộnnhau, chồng thì nói có kèn trống không có cờ phướn, vợthì nói có cờ phướn mà không có kèn trống. Chồng tự cholà mình đúng, vợ cũng cho là mình không sai, hai vợ chồngcãi nhau hoài không ai chịu thua, giận tức nổi lên liền đánhlộn nhau. Người đi đường thấy mới can gián và hỏi duyêncớ. Người chồng phân bua:

- Tôi nghe đám ma thổi kèn đánhtrống, tôi nói có kèn trống bả không chịu, bả nói tôinói bậy, bả nói chỉ có cờ phướn, không có kèn trống,nên mới cãi nhau rồi nổi giận đánh lộn.

Người đi đường mới nói:

- Thưa ông bà, hai ông bà đều đúngcả, mà hai ông bà cũng đều sai. Vì đám ma này có kèn cótrống như ông nghe mà cũng có cờ phướn như bà thấy.

Nếu người chồng nghe tiếng kèntrống mà nhớ mình mù không thể thấy cờ phướn, và ngườivợ thấy cờ phướn mà nhớ mình điếc không thể nghe tiếngkèn trống thì đâu có cãi vả và đánh lộn nhau. Tại ngườinào cũng chủ quan, cho cái thấy nghe của mình là chân lý nênmới xảy ra cuộc cãi vả và đánh lộn nhau. Đó là nghiệpkhác nhau, không thể chấp nhận nhau.

Cũng vậy, chúng ta sanh ra đời mỗingười mang theo nghiệp riêng của mình mà cùng sống chung vớinhiều người khác, mỗi người chấp giữ và làm theo nghiệpriêng của mình mà không thừa nhận nghiệp riêng của ngườikhác, nên mới có sự cãi vả tranh chấp. Trong một gia đình,ông chồng thì huân tập cái nghiệp của người nam, bà vợthì huân tập cái nghiệp của người nữ. Hai cái nghiệp namnữ tuy có vài điểm tương đồng, nhưng cũng có nhiều điểmkhác biệt. Nên có nhiều gia đình vợ chồng gây cãi, đánhđập nhau hoài là vì chấp lý của mình là đúng, vợ cũngchấp lý của mình là đúng không biết dung hòa nhau để sống.Cái đúng của người chồng là do thói quen huân tập cái nghiệpcủa người nam. Cái đúng của người vợ là theo thói quenhuân tập cái nghiệp của người nữ, thế nên phải thôngcảm nhau để đối xử cho tốt đẹp, đem lại sự an vui hòathuận trong gia đình. Khi chúng ta biết mỗi người có nghiệpriêng thì không chủ quan, không chấp mà thông cảm hòa nhịnđược cuộc sống với mọi người.

Xưa có một gia đình, người vợthì tương đối tốt, biết bổn phận, biết lo làm ăn, ngườichồng thì bê tha rượu chè cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạcthua, về nhà là khảo tiền, nếu bà không có để ứng thìông chửi đánh thậm tệ. Người thân thuộc, láng giềng aithấy cũng đau lòng thắc mắc tại sao bà không ly dị cho rồi,cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? nhưng khi hỏi bà,thì bà không thể ly dị vì bà còn thương ông. Có nhiều giađình có những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, phá gia sảngần khánh tận. Vậy mà gia đình vẫn thương, không thể từbỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con. Để thấy cáinghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoại cuộc không cónghiệp đó thì không chấp nhận, không chịu nổi. Còn ngườiđã có nghiệp, có nợ nần nhau, dù bị đánh đập, phá phách,đối xử tàn tệ mà người ta vẫn chấp nhận chung sống,không thể rời nhau được. Như vậy, nếu biết được mỗingười có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sốnghết sức dung hòa, không thắc mắc, không trách cứ nhữnghoàn cảnh khó khăn rắc rối mà người trong cuộc không giảiquyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của họ.

Nghiệp chung tức là đồng nghiệpvọng kiến. Cũng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật có dạy: Ngườicó nghiệp chung mới sinh ra ở chung một nước, nói cùng mộtngôn ngữ, sống cùng một tập quán... Nếu có cùng nghiệpxấu thì cùng thấy điềm bất tường như sao chổi, sao phướn...Chỉ có dân nước đó trông thấy mà dân nước khác khôngthấy. Cũng giống như những người nhặm mắt cùng thấy chungquanh ngọn đèn đang cháy có một cái vòng xanh hay đỏ, cònnhững người không nhặm mắt thì không thấy. Vậy, ngườicùng nghiệp thì cùng cảm nhận hiện tượng giống như nhau.Có nhiều người thắc mắc tại sao anh chị em cùng cha mẹsanh ra trong một gia đình, rầy la cãi hoài. Hoặc vợ chồngchấp nhận sống chung trong một gia đình, mà kẻ ý này ngườiý kia, bất hòa hờn giận nhau hoài là tại sao? Nếu khôngcó duyên nghiệp với nhau tại sao gặp nhau, sống chung vớinhau để khổ? Chúng ta nên biết khi gặp nhau là đã có nghiệpđồng phần rồi, tức là đã có cộng nghiệp nên cùng ởchung với nhau. Tuy ở chung với nhau, mà mỗi người cũng cócái nghiệp riêng nên không ai giống ai. Nếu có giống chăngchỉ giống năm sáu mươi phần trăm là tối đa, không bao giờcó hai người giống nhau từ hình dáng đến tính tình. Phầngiống nhau thì gọi là đồng nghiệp, vì đồng nghiệp nênmới cùng nhau sanh trong một gia đình, trong một đất nước.Và vì mỗi người có cái nghiệp riêng nên có người thìgiàu sang sung sướng, an vui hạnh phúc, lại có người bầncùng khốn khổ. Hoặc anh em cùng cha mẹ sinh ra, học chung mộttrường mà có người học giỏi có người học dở. Đó làtrong cái đồng nghiệp vẫn có cái biệt nghiệp, mà dù làđồng nghiệp hay biệt nghiệp Đức Phật đều gọi là vọngkiến. Vọng kiến là cái thấy hư dối không thật.

Tại sao nói nghiệp là vọng kiến?Ví dụ có người nói lời xúc não làm cho mình nổi giận,khi nổi giận thì nói lời hung ác mắng chửi, tay thì đánhđập người ta. Khi đánh đập chửi mắng người, thì bịluật pháp trừng trị, cái khổ của tội phạm pháp này ítnhất cũng một tháng. Và nếu mình có sức mạnh, có võ nghệ,đánh người chết tại chỗ, thì tù tội khổ sở ít nhấtcũng 10, 15 năm. Vậy, miệng nói bậy, thân làm bậy, đó lànghiệp ác, và nghiệp ác đó từ ý nổi sân mà ra. Ý sânchỉ nổi lên khoảng 5, 10 phút mà hậu quả không lường được.Nghiệp ác của miệng và thân có ra, là do ý ác chủ động,ý ác tức là niệm sân, chúng ta nhìn xem tướng trạng củanó ra sao? Khi (chúng ta) nhìn nó thì nó mất tiêu, không thấyhình dáng tướng mạo nó ở đâu cả, mà không hình dáng khôngtướng mạo thì không thật. Như vậy, chính cái chủ độngtạo nghiệp (ý sân) là không thật. Cái không thật mà chỉvì chúng ta mê chạy theo nó để tạo nghiệp thọ khổ thìthành có thật. Nên Ngài Khuê Phong nĩi: "Thế không mà thànhsự". Bản chất của cơn giận vốn là không, bất giác theonó tạo nghiệp nên trở thành thật. Đó là nghiệp ác.

Còn nghiệp lành cũng vậy, giảsử chúng ta đi đường gặp người bệnh tật đang nằm rênrỉ bên đường, chúng ta khởi lòng thương đem họ vô lềđường kêu xe chở tới bệnh viện để chữa trị. Vậy,lòng thương hình dáng tướng mạo như thế nào? Có thật không?Không. Nhưng khi theo nó thì tạo nghiệp lành, thân miệng ýnói làm lợi ích cho người. Cái gốc tạo nghiệp ác hay nghiệplành bản chất nó không có thật, nhưng khi theo nó thì sẽthành nghiệp hoặc lành hay dữ. Phật dạy nghiệp là cái khôngthật, tuy không thật, nếu đã làm thì sẽ cho quả, chớ khôngtránh khỏi. Trốn tránh người thế gian thì được, mà nghiệpthì không thể trốn được. Vì khi tạo nghiệp thì mắt thấytai nghe thân cảm thọ, chủng tử nghiệp đã chứa vào tạngthức rồi, hội đủ duyên thì quả kết tụ.

Về ý nghĩa đồng nghiệp, trongkinh có ghi: Một hôm Phật ở trong hương thất trong núi LinhThứu, gần đó có nhiều đoàn Tỳ Kheo đi thiền hành. Đoànthứ nhất đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất. Đoàn Tỳ Kheo thứhai dẫn đầu là Tôn Giả Mục Kiền Liên. Đoàn thứ ba cácTỳ Kheo đi sau Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp. Đoàn thứ tư gồm nhữngTỳ Kheo đi theo Tôn Giả A Na Luật. Đoàn thứ năm là mộtsố Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Phú Lâu Na. Đoàn thứ sáu lànhững Tỳ Kheo đi theo sự hướng dẫn củaa Tôn Giả Ưu BaLy. Đoàn thứ bảy là những Tỳ Kheo đi theo sau Đề Bà ĐạtĐa. Khi đó Phật mới nói với các vị Tỳ Kheo đang ở bêncạnh:

Những Tỳ Kheo cùng đi theo Xá LợiPhất là những Tỳ Kheo có trí tuệ lớn. Những Tỳ Kheo cùngđi với Mục Kiền Liên là những Tỳ Kheo có đại thần thông.Những Tỳ Kheo đi theo Ma Ha Ca Diếp là những Tỳ Kheo ưa tuhạnh đầu đà... Còn những Tỳ Kheo mà đi theo Đề Bà ĐạtĐa là những Tỳ Kheo có tâm ác dục".

Và Phật kết luận rằng: Ai cùngđi theo người nào là đã có cái nghiệp chung với ngườiđó. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất là có cáinghiệp chung với Ngài về trí huệ. Những Tỳ Kheo đi theoTôn Giả Mục Kiền Liên là có nghiệp chung với ngài về thầnthông. Cho tới các Tỳ Kheo đi theo Đề Bà Đạt Đa cùng cónghiệp chung về ác dục. Cái nghiệp chung đó có từ quá khứ,hiện tại, vị lai cứ theo nhau không rời. Đó là cộng nghiệpcủa những Tỳ Kheo thời xưa, được Phật dạy trong kinh.Còn cộng nghiệp trong thời hiện tại, chúng ta thậy rấtthực tế và cụ thể. Người thích rượu chè say sưa thìcùng ăn chơi thân cận với người uống rượu Người ưacờ bạc thì giao du với người cờ bạc. Người chuyên cầnhọc hành nghiên cứu thì tới lui thân cận với người nghiêncứu học hành. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phậtthì kết bạn với người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Nhưvậy, người này thích người kia là họ có chung nghiệp (đồngnghiệp) nên mới hợp nhau. Để thấy trong cuộc sống này,mọi người cùng có nghiệp chung, nên mới trở thành chồngvợ, cha con, anh em, bạn bè. Và vì ai cũng có nghiệp riêngnơi dáng mạo, tánh tình năng khiếu, trí tuệ sai khác, khôngai giống ai. Vậy, nghiệp nó chi phối cả đời sống chúngta, nếu huân tập sâu nghiệp nào thì nghiệp đó có sức mạnh,có hấp lực thu hút chúng ta đến môi trường của nghiệpđó. Vì vậy, người Phật tử biết tu hành thì thân khẩuý luôn luôn phải thiện lành, mới chiêu cảm được biệtnghiệp tốt và đồng nghiệp thiện.

Nếu tu còn trong vòng tương đối,thì phải biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành để tạothân tốt, tức là được biệt nghiệp tốt và sanh trong cõithiện, có đồng nghiệp thiện. Tiến thêm một bước nữa,nếu biệt nghiệp là không thật, do ý sanh ra, mà ý cũng khôngthật có, nó là niệm phân biệt chợt hiện chợt mất, nênkhông theo là dừng nghiệp ý. Nghe nói trái tai vừa nổi bựctức muốn đánh chửi người, liền nhìn lại xem coi cái bựctức hình tướng thế nào, phát xuất từ đâu? Tìm lại khôngthấy hình tướng của bực tức, mà nguồn gốc khởi bựctức cũng không còn nữa. Thấy của người lòng tham vừa móngkhởi muốn lén lấy, liền nhì lại coi tướng trạng củatham lam như thế nào, phát xuất từ đâu? Khi nhìn kỹ lạithì không thấy hình dáng của tham lam, và nơi chốn phát xuấtra tham lam cũng không có nữa.

Như vậy, nghiệp phát xuất từý, rồi miệng, ra thân, mà ý là gốc phát ra nghiệp đã khôngthật, thì nghiệp miệng nghiệp thân làm gì có thật? Sởdĩ thấy nghiệp có thật là do mê. Những nơi khác dạy khiđổi duyên xúc cảnh, nếu có khởi tham lam sân giận, thìcứ lo niệm Phật nhớ Phật, thì tham lam sân giận sẽ lắngxuống. Đó cũng là một cái thuật đối trị bệnh tham bệnhsân. Ở đây thì chúng tôi chủ trương dùng trí nhìn lạinhững cái xấu như tham, sân, kiêu mạn... hình dáng tướngtrạng ra sao, phát xuất từ đâu? Khi nhìn lại nếu nó tanbiến là nó không thật thì nó không có sức mạnh khiến mìnhnói làm theo nghiệp ác. Và cứ mỗi lần đổi duyên xúc cảnh,nếu có tham sân... dấy khởi lên nhìn lại xem tường tậnthấu đáo, thấy nó không thật thì nó không chi phối mìnhnói làm sai quấy. Khi tâm chúng ta thanh tịnh là đã cắt đứtđược dòng tạo nghiệp là vọng tưởng là ý nghiệp khôngcòn luân hồi sanh tử, được giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2021(Xem: 13944)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
12/11/2021(Xem: 7274)
Cao nguyên Tây Tạng, ngoài Bắc cực và Nam cực, là bồn chứa băng tuyết to lớn nhất, và thường được xem là "Cực Thứ ba". Tây Tạng là nguồn cung cấp nước cho một số sông to lớn nhất trên thế giới, trong số đó gồm có sông Brahmaputra, sông Hằng, sông Indus, sông Mê-kông, sông Salween, sông Hoàng hà và sông Trường giang. Các con sông đó là nguồn sống, bởi vì chúng cung cấp nước uống, dẫn nước vào các hệ thống thủy lợi, giúp việc canh tác và sản xuất thủy điện, cho gần hai tỉ người trên khắp các vùng Á châu. Nhiều băng hà trên Tây Tạng tan thành nước, các công trình xây đập và đổi hướng sông ngòi, kể cả việc phá rừng quy mô đã khiến các hậu quả tạo ra bởi thái độ tắc trách về môi trường, ngày càng lan rộng khắp nơi.
09/11/2021(Xem: 5862)
Gần đây, tôi đã nhận lời mời của đài truyền hình trực tuyến quốc nội "thử niệm" (此念) để chia sẻ về Triết lý Giáo dục “tăng trưởng cuộc sống" (生命成長), trong hàng loạt bài Triết lý Giáo dục của Tôi. Sau đây là nội dung của cuộc phỏng vấn.
09/11/2021(Xem: 10193)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
09/11/2021(Xem: 5709)
Điều đầu tiên chúng ta nhận thức vật chất, phải thông qua cơ thể của chính mình. Thậm chí có thể nói rằng, con người biết đến sự tồn tại của ý thức, thông qua cảm giác của thân thể. Ảnh hưởng của thân thể lên ý thức là điều hiển nhiên, giống như sự khó chịu và đau đớn do bệnh tật gây ra, khiến chúng ta nhận thức được sự tồn tại khách quan của tứ khổ sinh, lão, bệnh, tử.
08/11/2021(Xem: 7551)
Huế, không khí vẫn bình lặng, sự bình lặng làm cho những ai quen sống cuộc đời phóng túng phải kinh hãi và họ kinh hãi là phải lắm, vì rất ít ai có khả năng nghe được tiếng nói từ bình lặng và hiến dâng trọn vẹn cho sự bình lặng đó. Ngày xưa, khi những vị giáo sĩ ngoại đạo tranh cãi nhau, làm cho không khí xáo động hết bình lặng, hoặc tình cờ, hoặc vì chủ đích, đức Phật đi đến giữa chúng tranh cãi ấy, thì trong chúng đó họ tự bảo nhau: “Đức Gotama đến kia kìa! Ngài là bậc an tịnh, trầm lặng, Ngài không muốn ồn ào!”. Họ nói với nhau như vậy xong, họ liền giữ sự im lặng mỗi khi gặp đức Thế Tôn.
08/11/2021(Xem: 7437)
Mùa xuân là hình ảnh của con người. Tâm của con người như thế nào, nó sẽ tạo ra mùa xuân cho con người đúng như thế ấy. Tâm của một người xấu thì không thể nào tạo ra một mùa xuân đẹp cho chính mình, huống hồ gì họ có thể tạo ra một mùa xuân đẹp cho gia đình và xã hội. Mùa xuân là hình ảnh của cộng đồng người. Tâm thức của cộng đồng người như thế nào, họ sẽ tạo ra mùa xuân cho chính cộng đồng của họ đúng như thế ấy. Tâm của một cộng đồng người đặt đức tin của họ vào những thế lực ngoại tại, thì tự thân của cộng đồng đó sẽ tạo ra những biểu tượng thần thánh để tôn sùng và tô vẽ cho mùa xuân của cộng đồng họ qua hình ảnh thánh thần.
08/11/2021(Xem: 8881)
Sáng ngày 6/11/2021, tại thôn Nà Danh, xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng, Đại diện Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, và các nhà tài trợ doanh nhân Phật tử Công ty TNHH ToTo, Cục Hải Quan Hà Nội, Công ty Cổ Phần TM&DV Ngọc Hà, Công ty TNHH Kentetsu World Express Việt Nam, Công ty Cổ Phần Tư Vấn Công Nghệ Thiết Bị và Kiểm Định xây dựng CONINCO, cùng Đại diện Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân xã Lê Lai đã tiến hành Khánh thành trường Mầm non trên địa bàn xã.
08/11/2021(Xem: 5397)
Thói quen của chúng sinh thường tự cho mình là trung tâm, và việc mãi mê những ham muốn vật chất không bao giờ thỏa mãn. Đối với mọi thứ trên đời, các bạn muốn sở hữu những thứ tốt, và từ chối những cái xấu, tức là tham lam và chán ghét. Khi tâm trí con người bị chi phối bởi hai thế lực này, họ không thể nhìn nhận sự việc một cách khách quan, và cách đối nhân xử thế dễ bị trục trặc. Một số người nổi tiếng, nhưng họ thực sự có hạnh phúc? Một số người không ngần ngại sử dụng các phương tiện không chính đáng để đạt được danh và lợi, chẳng hạn như làm hại người khác vì lợi ích riêng cho bản thân, hoặc ức hiếp đánh đập những người mà họ không thích. Mọi người không ngừng suy nghĩ về sự khác biệt, và họ có thể cảm thấy tội lỗi khi tỉnh giấc lúc nửa đêm dài trong mộng. Nếu tâm không thể thanh thản thì khó có thể gọi là một cuộc sống hạnh phúc.
08/11/2021(Xem: 5532)
Vô Tầm Vô Tứ Định là tầng Định thứ hai trong bốn chi Thiền do đức Phật thiết lập. Bốn chi Thiền đó gồm Sơ Thiền tương xứng với Sơ Định hay Định Hữu Tầm Hữu Tứ, Nhị Thiền tương xứng với Vô Tầm Vô Tứ Định, Tam Thiền tương xứng với Xả hay An Chỉ Định, Tứ Thiền tương xứng với Chánh Định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]