Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Hạnh Phúc

25/02/201116:59(Xem: 4113)
9. Hạnh Phúc

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường

HẠNH PHÚC

Hạnh phúc chân thật là sự hỷ xả, và hơn nữa, sự thi ân.

A, con bướm vàng! Con bướm vàng cao sang đang lướt ngang trên lá lục. Nhưng đuổi theo nó làm chi? Đã dễ gì em bắt được, mà dù em có nắm được trong tay, nó cũng chỉ còn là thân hình một con nhộng, hai cánh vàng sẽ tan ra làm muôn mảnh vụn trong năm ngón tay siết chặt của em thôi.

Em có nhớ chăng, những buổi chiều vàng, rong chơi trong đồng ruộng, em có định ý bắt đâu, thế mà những con bướm trắng, bướm vàng bỗng rủ nhau đến đậu quanh em. Cũng thế em ơi, ngày em biết không cần đuổi hạnh phúc là ngày hạnh phúc bay lại đậu gần em. Em hãy thản nhiên, để yên cho nó đậu. Nếu em cựa quậy định ý bắt, là nó vụt bay ngay. Đừng bảo nó khó tính, chính em đã khó tính, muốn đuổi bắt cho được nó để giam lại cho riêng em nên nó phải bay đi.

Anh đã từng thấy mỗi năm, đến trưa mùng năm tháng năm, người ta đi tìm bắt những con thằng lằn, rắn mối … đem về làm thuốc. Họ đi lang thang cả buổi trưa mà chẳng bắt được con nào. Họ không bắt được có lẽ là buổi trưa nắng quá, rắn rít đều ẩn vào bụi sâu. Nhưng cũng có lẽ là tại người ta ùa nhau đi tìm. Trong chữ tìm đã sẵn nghĩa khó gặp, anh đã từng thấy nhiều kẻ chạy đi tìm những vật họ đang nắm trong tay. Khi thôi tìm thì té ra chúng nằm sờ sờ ra đấy.

Em ơi, hạnh phúc rất giản dị. Nó nằm sẵn trong lòng, nếu không nhận thấy ở trong lòng thì không thể gặp nó ở đâu cả, dù em có đi tìm khắp mặt đất.

Có những đứa bé rất dại khờ, cho nên rất dễ ác. Chúng rủ nhau đi bắt chuồn chuồn. Những con chuồn chuồn mình đỏ nọc như trái ớt chín, có những cánh mỏng và thưa như những mảnh the nhỏ mới cắt ở một tấm the đỏ nào đó. Chúng đậu rung rinh, ru mình trên hoa cỏ ống. Lũ trẻ nín thở đi nhè nhẹ từng bước, đưa tay run run chực rình bắt chúng ở phía sau đuôi. Nhưng dễ gì bắt được. Thường thường phải năm bảy lần bắt hụt mới may ra có một lần kẹp được đuôi chúng giữa hai ngón tay. Ồ, sung sướng, cho nên dễ điên cuồng, lũ trẻ cẩn thận ngắt mất nữa cánh chuồn chuồn rồi mới bỏ vào hộp, để chúng khỏi bay. Khi chuồn chuồn đã đầy hộp, lũ trẻ ngồi bệt xuống cỏ, hớn hở dở nắp ra xem. Ô sao mà xấu thế, cả một đống chuồn chuồn đứt cánh đang cựa quậy, lúc nhúc giữa bốn thành hộp.

Em ơi, nếu không thể chắp thêm cánh cho nó thì thôi, đừng bao giờ cầm giữ hạnh phúc bằng cách ngắt cánh nó đi. Hạnh phúc ta chờ đợi bên ngoài là những gì có cánh, nó phải bay luôn, và bởi thế nên nó đẹp. Khi bay, con đom đóm có thể làm cho chúng ta tưởng lầm một ánh sao trời. Nhưng khi rơi xuống cỏ, nó chỉ là một con bọ tanh hôi.

Anh nói thế không phải để khuyên em sống luôn trong ảo tưởng. Anh có cần phải khuyên em như thế làm gì khi mọi vật là ảo tưởng cả rồi. Chính biết sự đời là sương khói, nên anh mới khuyên em đừng nắm bắt, gìn giữ một cái gì, nếu em muốn có hạnh phúc. Em không bao giờ muốn đoán bắt một làn hương, bởi em biết nó phải tan biến. Nhưng mọi sự vật ở đời mà em tưởng bền chắc, cũng đều dần dần tan biến cả. Em ơi làm sao em muốn níu chúng lại.

Đừng nhìn anh với đôi mắt nghi ngờ như thế, anh nói thật đấy. Mọi vật đều chuyển di xê dịch đổi thay. Không có vật gì có thể đứng yên, chỉ có sự luôn luôn thay đổi là không bao giờ thay đổi. Dòng nước tuôn trào, đời qua không ngừng nghỉ. Cái dại của người là đã bám víu vào nhiều sự vật ở đời quá, và cái khổ của họ là phải thấy chúng tan vỡ dần.

Cho nên đừng cố nắm giữ hạnh phúc khi nó không thể ở cùng em. Em sẽ chỉ giữ lại vang bóng của nó, và một nỗi thất vọng khôn cùng mà thôi. Cái khôn ngoan của em là biết mở lồng đúng lúc cho chim hạnh phúc bay đi, khi nước mây bắt đầu réo gọi nó. Nếu nấn ná giam cầm, em sẽ vun trồng một mầm chết, một sáng mai nào đấy, em sẽ thấy nó chết queo giữa lồng, giữa lòng em.

Anh kết luận, đừng đuổi bắt, đừng tìm kiếm, nhất là đừng có giam giữ hạnh phúc, khi nó không cùng em muốn ở. Không phải tom góp cho nhiều. Chính là phải sa thải dần dục vọng, dục vọng bớt xuống thì hạnh phúc tăng lên, cái cân hai đĩa, bớt một ít bên này, thì bên kia tuy chẳng thêm chi mà thành nặng.

Không phải thâu vào cho nhiều những gì em không thể giữ được. Chính là phải phát ra những gì quí giá của lòng em. Cái cử chỉ tung vãi là cái cử chỉ đẹp nhất. Anh liên tưởng đến người vãi mạ tung cánh tay rộng trên nền trời, và cái mùa sau gặt hái. Phân phát hạnh phúc cho mọi người, ấy là một cách gieo mầm hạnh phúc cho chính em.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6355)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6380)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5525)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3856)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3945)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4721)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4721)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5094)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5234)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6519)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]