Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử Hòa Điệu Sống

25/02/201116:54(Xem: 8233)
Thử Hòa Điệu Sống

THỬ HÒA ĐIỆU SỐNG
Võ Đình Cường
thuhoadieusong_vodinhcuong
MỤC LỤC
Thay Lời Tựa
Lý Tưởng
Hình Phạt
Sống với Hiện Tại
Số Phận hay Rủi May
Mở Rộng Lòng
Nghĩa Thời Gian
Chân Thành
Tin Tưởng
Hạnh Phúc
Đẹp Vĩnh Viễn
Lời Cuối

********************

Thay Lời Tựa

Anh với em thật chưa bao giờ quen biết. Đôi mắt nhiệt thành, đôi môi cương quyết, hai bàn tay rắn chắc, vồ vập ấy, anh đã mường tượng như đã trông thấy năm bảy lần trên đường anh qua. Nhưng những dáng điệu ấy chắc gì chỉ của riêng em? Tuổi hai mươi nào lại có những dáng điệu giống nhau, phát lộ từ những tâm hồn nhiệt thành với cuộc đời, anh hăm hở với sự sống.

Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ, những đường tươm máu, gai đời rạch nát trên đôi tay, bởi cái gì cũng muốn nắm bắt, những vết trầy, những chấm rỗ, đá sỏi trên đường đã châm thủng đôi chân, bởi chỗ nào cũng muốn dẫm đến.

Vì tại sao em đày đoạ tâm hồn, dày vò xác thịt, tự hiến dâng mình cho một kẻ trầm hương cho một lò thí nghiệm lớn, anh đã biết, nên không trách móc mà chỉ thương xót em. Vào độ tuổi em, anh cũng đã từng quằn quại với bao câu hỏi luôn luôn quay cuồn cuộn trong đầu óc nóng ran, đã từng phân vân uất ức giữa bao thái độ trái ngược của sự sống, mà vẫn không tìm ra được ý nghĩa thích đáng cho cuộc đời.

Thế nghĩa là anh đã trải qua một phần nào tâm trạng khắc khoải của em, cho nên hôm nay, tình cờ gặp nhau trên một nẻo đường, tuy chưa hẳn đã quen nhau, anh đã hiểu em nhiều lắm. Với nét nhăn trước tuổi, với dáng điệu trầm tư, em ngồi đó mà anh tưởng như đối diện với chính anh, cách mười năm trước. Bổng nhiên một nguồn yêu thương tràn ngập tâm hồn, anh nhận thấy cần được xích lại gần em, đặt bàn tay mát dịu trên trán nóng hổi của em, và cần được bàn bạc cùng em năm bảy câu tâm sự mà anh đã nghiền ngẫm bấy lâu với một người em bây giờ không còn nữa.

Những tâm trạng ấy, anh không đặt ra. Chúng tự nảy nở lúc cần phải nảy nở, như làn chớp của hai luồn điện gặp nhau, như hoa trái đến thời tiết nhất định của chúng. Nhưng nếu chúng ta không biết giải quyết bằng cách này hay cách khác, chúng sẽ ung thối và đầu độc suốt cả cuộc đời. Bao nhiêu hoa trái đáng lẽ tốt tươi phải héo hắc tự chồi non bởi thiếu một ánh nắng. Bao nhiêu thanh niên chưa bước ra khoải ngưỡng cửa cuộc đời, bổng trở thành ông cụ già bi quan, bạc nhược, kéo đời mình lê thê qua những ngày tàn ảm đạm. Bởi vì đâu? vì không tìm ra nghĩa sống vậy!

Trong lúc tuổi hai mươi mở rộng cửa ra trước cuộc đời mới lạ, bao nhiêu câu hỏi gắt gao, tới tấp, dồn dập đến xâm chiếm tâm hồn anh. Không thầy, không bạn anh đã lần hồi tự tìm lấy những lời giải đáp, nhờ một ít giáo dục, một ít kinh nghiệm và rất nhiều ảnh hưởng của Phật giáo.

Anh không dám tự hào rằng những lời giải đáp ấy là những định luật chung của cuộc đời, hay những chân lý bất di bất dịch. Nhưng ít ra, anh có thể nói được rằng chúng đã đem lại cho anh sau những năm sóng gió tơi bời, lúc tuổi hai mươi vừa đẩy anh rời khỏi bến gia đình, sự định tĩnh của tâm hồn, một nghĩa sống vui tươi, lung linh sắc màu. . .

Đến đây, anh cần phải xin lỗi em về sự thân mật gần như sổ sàng trong cách xưng gọi “anh em”. Nhưng ngoài cách ấy, anh thấy không còn cách nào khác.

Anh muốn, nhưng bất kỳ ở trường hợp nào câu chuyện chúng ta sẽ bao trùm trong bầu không khí thân mật để dễ được cảm thông. Anh không muốn, thật tình không bao giờ muốn, làm một bậc thầy, làm một ông giáo, một vị giảng sư đạo mạo ... những chức vị ấy làm xa cách người nói và người nghe quá!

Anh đã ngồi ở ghế nhà trường, đã vào giáo đường, đã dự thính những buổi diễn thuyết … Ở những nơi ấy một ít lẽ tập truyền, cộng thêm uy thế của người giảng, đã làm người nghe phải khuất phục hơn là sung sướng công nhận, bị răn dạy hơn là cảm thông. Và kết quả là không lợi bằng những buổi thân mật ngồi nói chuyện bên nhau.

Vả lại, anh dám đâu tự đặt mình vào địa vị của một trong những vị trên. Thời gian chưa đến ghi dấu trên đầu đốt tuổi ba mươi, anh có đâu đủ kinh nghiệm và sự chín chắn của một bậc thầy để lên mặt dạy đời và giữ phần phân phát đạo đức. Làm một nhà giáo dục? Không, một trăm lần anh không muốn! Nếu có làm chức vụ ấy, anh cũng chỉ làm cho anh mà thôi. Anh thấy không thể giáo hoá ai khác hơn là tự giáo hoá lấy mình. Công việc ấy anh đã làm và sẽ còn làm mãi. Cho nên luôn luôn trước mặt mọi người, cũng như bây giờ trước mặt em, khi anh cần phải nói gì, anh thấy như đấy là cũng một dịp để tự nói với mình, tự căn dặn, tự vỗ về, tự khuyên nhủ lấy, và sau cùng, để soát lại suy tư một lần nữa.

Từ chối tất cả những chức tước trên, với em, anh chỉ muốn là một người anh, một người anh không độc đoán, không cố chấp, hiền từ ngồi bên em mà đàm đạo. Anh sẽ nắm tay em mà chỉ lại con đường tư tưởng mà anh đã đi qua, rồi để em tự liệu lấy.

Huế, mùa xuân năm 1975.

Source: thuvienhoasen

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5383)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4394)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5260)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5492)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8602)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6463)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6204)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4516)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9517)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5970)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]