Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng Chuốc Lấy Khổ Đau

19/02/201114:57(Xem: 8278)
Đừng Chuốc Lấy Khổ Đau

HẠNH PHÚC KHẮP QUANH TA
Nguyên Minh

HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU

ĐỪNG CHUỐC LẤY KHỔ ĐAU

Chúng ta đã bàn đến những khổ đau không sao tránh khỏi trong cuộc sống. Chẳng hạn, dù muốn hay không thì mỗi chúng ta đều phải chấp nhận bệnh tật, chấp nhận già yếu, chấp nhận sự chết, chấp nhận sự mất mát những người thân yêu khi họ chết đi... Đó là những khổ đau không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, còn có những nỗi khổ đau mà chúng ta “tự nguyện” chuốc lấy chỉ vì thiếu hiểu biết, hay nói một cách chính xác hơn là do nhận thức không đúng thật về sự việc.

Chúng ta mong muốn những điều không có khả năng đạt được, và đau khổ khi sự mong muốn của mình không được đáp ứng. Có thể kể ra vô số những trường hợp đau khổ thuộc loại này. Từ những chuyện nhỏ nhặt và thường xuyên xảy ra hằng ngày như mong muốn những người quanh ta phải làm điều này, điều nọ, hoặc ứng xử theo cách này, cách khác... Trong thực tế, mỗi người đều có những suy nghĩ và sở thích riêng, nên những mong muốn như thế thật hiếm khi được thỏa mãn. Ở mức độ lớn hơn, chúng ta theo đuổi những điều vượt quá khả năng thực tiễn để rồi phải đau khổ khi không đạt được...

Rất nhiều nỗi khổ của chúng ta xuất phát từ sự mong cầu đi ngược lại tự nhiên. Chúng ta mong muốn điều gì đó và bất kể là những mong muốn ấy có hợp lý hay không. Hay nói đúng hơn, chúng ta không chịu nhìn sâu vào bản chất của sự vật để có thể thấy được sự vô lý của chính mình.

Một cô gái đau khổ vì yêu thương một chàng trai nhưng không được đáp lại. Chàng trai kia không có lỗi gì cả. Chàng hoàn toàn có quyền lựa chọn người mình yêu thương. Nhưng cô gái đang yêu không có đủ sáng suốt để nhận ra điều đó. Cô đau khổ vì sự sai lầm trong nhận thức của chính mình. Nỗi đau khổ của cô chỉ có thể chấm dứt khi nào cô đối diện được với nó và nhận ra nguyên nhân thật sự, như bao nhiêu người khác đều có thể nhận ra.

Chúng ta cũng chuốc lấy đau khổ trong ý nghĩa làm tăng thêm những nỗi khổ vốn có. Khi chúng ta hờn giận, căm ghét hay ganh tỵ... chúng ta sống trong tâm trạng không vui vì chính những cảm xúc tiêu cực ấy. Tuy nhiên, thay vì nhận ra sự thật này để vượt qua, chúng ta lại có khuynh hướng bị thu hút vào đối tượng của sự hờn giận, căm ghét hay ganh tỵ, và điều này càng nuôi lớn thêm những cảm xúc tiêu cực vốn có. Kết quả là, thay vì nguôi đi theo thời gian, những cảm xúc này lại ngày càng lớn lên, ngày càng gây đau khổ nhiều hơn cho chúng ta.

Khi bạn đang có chuyện xích mích với một ai đó chẳng hạn, đề tài thu hút nhất trong một cuộc nói chuyện với những người khác trong lúc này có vẻ như sẽ là nói về người ấy, và tất nhiên là với nội dung không tốt đẹp... Mặc dù đây quả thật là điều không tốt, nhưng lại là điều rất thường xảy ra.

Chúng ta cũng chuốc lấy khổ đau trong ý nghĩa cường điệu hóa vấn đề không đúng như sự thật. Và vì vấn đề được đánh giá không đúng thật, nên nó có thể trở nên nghiêm trọng một cách không cần thiết, do đó cũng làm khổ chúng ta một cách không cần thiết. Đôi khi chúng ta phản ứng quá khích với những vấn đề thực ra là nhỏ nhặt, hoặc chúng ta đánh giá một sự việc qua định kiến của mình thay vì là dựa vào những gì thực sự diễn ra. Chẳng hạn, một lời nói vô tình xúc phạm đến ta, thường không chỉ được tiếp nhận đơn thuần trong ý nghĩa những gì nghe thấy, mà thường được liên kết ngay với những định kiến liên quan đến người nói để rồi suy diễn ra những điều vượt quá sự thật.

Tất cả những khuynh hướng sai lệch như trên đều là nguyên nhân chuốc lấy tâm trạng bất an, đau khổ cho chúng ta, và cách đối trị duy nhất là chính chúng ta phải nhận ra để từ bỏ chúng.

Chúng ta cũng chuốc lấy đau khổ trong ý nghĩa tự xem mình là trung tâm của mọi sự việc. Khuynh hướng này thu hút về bản thân hầu hết những gì mà ta cảm thấy không hài lòng, cho dù điều đó tạo ra cho chúng ta rất nhiều đau khổ. Khi bạn bước vào một quán ăn và phải chờ đợi quá lâu chẳng hạn, sự bực dọc có khuynh hướng kèm theo ý tưởng là người phục vụ đã cố tình phớt lờ không đến chỗ bạn (?), bởi vì bạn nhìn thấy một vài người khác đã được phục vụ... Tất nhiên đây là một ý tưởng hoàn toàn sai lệch, nhưng phần lớn trong chúng ta thường mắc vào những sai lệch tương tự như thế. Trong một cuộc nói chuyện giữa đông người cũng thế, nếu có một lời chỉ trích nào đó đưa ra không có địa chỉ cụ thể, dường như chúng ta luôn có khuynh hướng nhận lấy về mình, nhưng không phải để tiếp thu sửa chữa mà là để phản ứng một cách vội vàng, bực dọc... Khi nhớ lại những ngày bị giam ở trại tập trung Buchenwald của người Đức trong Thế chiến thứ hai, Jacques Lusseyran, lãnh tụ của một nhóm kháng chiến, đã nói một câu đầy ý nghĩa: “Đau khổ đến với mỗi chúng tôi bởi vì chúng tôi nghĩ rằng mình là trung tâm của cả thế giới, bởi vì chúng tôi cho rằng chỉ riêng có chúng tôi đang phải chịu đựng những đau đớn tột cùng. Người ta đau khổ là bởi vì luôn tự nhốt mình trong thân xác chật hẹp, trong bộ não nhỏ bé của chính mình.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5559)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5470)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6879)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4260)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9080)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5420)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5050)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5640)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6143)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5160)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]