Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhập Từ Bi Quán

19/02/201114:57(Xem: 9589)
Nhập Từ Bi Quán

HẠNH PHÚC KHẮP QUANH TA
Nguyên Minh

NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP

NHẬP TỪ BI QUÁN

Thuật ngữ Phật giáo này có thể là còn xa lạ với một số người, nhưng thật ra nó không có gì cao siêu bí ẩn mà chính là hàm chứa những gì chúng ta đã thảo luận về lòng từ bi cho đến lúc này. Tuy nhiên, chúng ta sẽ nhắc lại theo một trình tự cụ thể và liên kết chặt chẽ hơn để mỗi người trong chúng ta đều có thể dễ dàng thực hành phép quán này ngay trong cuộc sống hằng ngày.

Phép quán từ bi có công năng làm sinh khởi và nuôi dưỡng lòng từ bi trong mỗi chúng ta. Bất cứ ai cũng có thể và nên thực hành phép quán này như một phương thức đơn giản nhưng vô cùng hữu hiệu để phát triển lòng từ bi. Mỗi lần thực hành nên kéo dài ít nhất là 5 phút và có thể lâu hơn càng tốt, nếu điều kiện cho phép.

Để thực hành phép quán này, trước hết bạn cần một nơi yên tĩnh – một góc nhỏ trong nhà, phòng khách, phòng ngủ... hoặc bất cứ nơi đâu thuận tiện. Ngồi xuống với tư thế thật thoải mái. Có thể ngồi trên ghế tựa buông thõng hai chân, nhưng tốt nhất là ngồi xếp bằng trên giường hoặc trên sàn nhà với một tấm lót mỏng, hai chân tréo vào nhau hoặc chân trên chân dưới. Chọn cách nào cũng được, nhưng cần phải giữ lưng thẳng đứng và vững chải, không tựa lưng ra sau hoặc để lưng cong xuống. Hai tay đặt trên đùi hoặc trước bụng, lòng bàn tay ngửa lên.

Sau khi ngồi yên, bắt đầu giữ hơi thở điều hòa trong chừng một phút và bắt đầu quán tưởng. Trước hết, hãy nghĩ đến một nỗi khổ đau nào đó và tự mình xác định là không mong muốn xảy đến cho mình. Có thể chọn bất cứ hình ảnh khổ đau nào có ấn tượng mạnh nhất đối với bạn để quán tưởng. Có thể là bệnh khổ, tai nạn, chết chóc... hay bất kỳ nỗi khổ nào mà bình thường bạn vẫn e sợ nhất. Tập trung suy nghĩ về nỗi khổ đó và chắc chắn là bạn không muốn nó xảy ra với mình, bởi vì bạn chỉ mong muốn và biết chắc là mình có thể được hưởng một cuộc sống an vui, hạnh phúc. Khi quán tưởng điều này, bạn hoàn toàn dựa vào những kinh nghiệm thực có của bản thân mà không phải là những sự mô tả từ bất kỳ ai khác.

Khi những ý tưởng này đã trở nên vững chắc, bạn bắt đầu mở rộng sự quán tưởng để thấy rằng tất cả những người khác – thậm chí là những sinh vật khác – cũng không khác gì bạn về điểm này. Nghĩa là, tất cả đều không muốn phải chịu đựng khổ đau và đều mong muốn được sống an vui, hạnh phúc.

Tiếp theo, bạn hãy hình dung một người nào đó không may phải chịu đựng nỗi khổ đau mà bạn vừa quán xét. Hãy cố gắng nghĩ thật nhiều về việc người ấy sẽ phải chịu đựng những đau đớn, buồn khổ như thế nào. Sau đó, bạn nghĩ đến bản thân mình và thấy rằng mình cũng không khác gì người ấy, cũng sẽ đau đớn, buồn khổ tương tự như thế nếu phải chịu đựng hoàn cảnh ấy. Khi bạn nghĩ như vậy, một cảm xúc tự nhiên sẽ sinh khởi, bạn thấy cảm thông với nỗi đau của người ấy và mong muốn cho nỗi đau ấy sớm được chấm dứt ngay. Khi bạn tiếp tục quán tưởng, cảm xúc này sẽ ngày càng mạnh hơn và bạn bắt đầu nghĩ đến việc tìm mọi cách để cứu giúp người ấy thoát khỏi đau khổ. Kể từ khi ý tưởng này sinh khởi, bạn hãy cố gắng tập trung hoàn toàn vào nó, và như thế quyết tâm của bạn sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn. Cuối cùng, bạn duy trì tâm trạng cảm thông và mong muốn giúp đỡ này cho đến cuối thời gian thực tập.

Đối tượng xuất hiện trong phép quán từ bi có thể là bất cứ ai. Thông thường, khi bạn lần đầu tiên thực hành phép quán này, có thể bạn nên nghĩ đến một người thân của mình, vì điều đó dễ làm cho bạn thấy rung động hơn. Tuy nhiên, khi đã thuần thục, bạn nên mở rộng sang những đối tượng khác, thậm chí là những sinh vật. Khi lòng từ bi được nuôi dưỡng và phát triển mạnh, bạn sẽ có thể cảm thông và mong muốn cứu giúp ngay cả với những con vật đang chịu đau khổ chứ không chỉ riêng với con người.

Phép quán từ bi là một phương pháp dễ thực hành nhưng chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong việc nuôi dưỡng lòng từ bi. Tất nhiên là điểm khởi đầu của mỗi người không giống nhau, vì như đã nói, mức độ biểu hiện của lòng từ bi ở mỗi chúng ta là khác nhau. Có những người có thể gặt hái kết quả rất nhanh chóng, một số khác cần phải có thời gian và sự kiên trì, nhưng tất cả đều sẽ đạt được sự phát triển của lòng từ bi nhờ vào việc thực hành phép quán này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5558)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5470)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6877)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4258)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9080)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5420)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5048)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5637)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6141)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5158)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]