Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Nguồn gốc của đạo Phật

17/02/201114:54(Xem: 6398)
05. Nguồn gốc của đạo Phật

NGUỒN AN LẠC
Hòa thượngThích Thanh Từ
Thường Chiếu,PL 2545 - TL 2001

05

NGUỒN GỐC CỦA ÐẠO PHẬT
Giảng tại trường Hạ chùa Long An - 1998.

Hôm nay chúng tôi được duyên lành về đây, trướchết thăm chư Tăng trong mùa an cư, sau có vài lời muốn nói cùng chư Tăng Ni.Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ của Tăng Ni, nên trọn đời lúc nàotôi cũng canh cánh trong lòng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạoduyên tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến lên và tiến đúngđường lối của Phật đã dạy.

Tăng Ni chúng ta làngười hi sinh cả một cuộc đời để tu. Nếu một đời tu không được kết quả gì thìthật uổng một kiếp hi sinh. Với Phật tử cư sĩ chúng tôi cũng lo nhưng ít hơn,quí vị tu bao nhiêu tốt bấy nhiêu, có mất việc đạo thì còn lợi ích việc đời chớkhông như Tăng Ni. Tăng Ni là người hi sinh trọn vẹn đời mình cho sự tu hành đểđi tới chỗ an vui giải thoát và sau đó dìu dắt chúng sanh cũng được như thế.Nếu chúng ta tu không ra gì thì sự hi sinh đó thật đáng thương, đáng tiếc.

Vì vậy chúng tôi bậntâm nhiều, nên chúng tôi đã nhận lời mời của chư Tăng, chư Ni ở các tụ điểm ancư trong thành phố về đây tiếp chuyện, nhắc nhở quí vị làm sao cho sự tu hànhđược kết quả như sở nguyện của mình. Ðó là nguyện vọng của chúng tôi.

Hôm nay tôi nói chuyệnvới quí vị một đề tài: "Chúng ta tu theo đạo Phật không khéo bị quênmất gốc."Tại sao chúng tôi lại đưa ra đề tài này? Bởi vì là ngườixuất gia, bắt buộc chúng ta phải phăng tìm nguồn gốc của đạo Phật, lấy đó làmnền tảng vững chắc cho đời tu, luôn luôn nương tựa vào đó, chớ không thể nàoquên hay đi sai lệch được. Do đó chúng ta phải quay về tận nguồn gốc của đạoPhật, xem ai là người khai sáng đạo Phật và Ngài đã tu hành truyền bá như thếnào, mà Phật giáo còn mãi đến ngày nay? Chúng ta là hàng hậu học kế thừa nốitiếp, phải làm những gì xứng đáng là đệ tử của Phật. Ðó là mục tiêu tôi nhắmđến.

Nói đến nguồn gốc củađạo Phật thì chắc rằng tất cả Tăng Ni đều biết đức Phật là một Thái tử ở Ấn Ðộxuất gia đi tu, bỏ cả sự nghiệp thế gian để tìm đạo giải thoát. Khi đã đạt đượcđạo quả rồi Ngài truyền giáo cho đến tận ngày nay gần như cả thế giới đều biết.Như vậy lịch sử đức Phật ai ai cũng thuộc nhưng ở đây tôi muốn đặt lại câu hỏi:Tất cả chúng ta nhớ lại xem vì sao đức Phật đi tu? Ðó là điều mà chúng ta phảiphăng tìm tận cội rễ, tột căn nguyên. Chúng ta nương theo đó mà có một lối đi,một con đường tiến lên tu tới chỗ cứu kính.

Dĩ nhiên tất cả chúngta không ai phủ nhận đức Phật đi xuất gia là vì chứng kiến được cảnh sanh, già,bệnh, chết. Lý do này hết sức quan trọng đối với đạo Phật. Tôi nhớ trong sử cókể đức Phật một lần thấy người già Ngài liền thức tỉnh. Người này già rồi maikia ta cũng già. Thấy người bệnh, người chết, Ngài biết rằng rồi ta cũng phảibệnh, phải chết. Vì vậy nên Ngài mới băn khoăn, thao thức không yên được.

Người mê thấy cảnhgià, bệnh, chết tưởng chừng đó là chuyện của ai chớ không phải là chuyện củamình. Tất cả quí Tăng Ni, Phật tử đã từng chứng kiến cảnh già, bệnh, chết haychưa? Chắc chứng kiến nhiều lắm. Nhưng chứng kiến mà quí vị có tỉnh không? Haylà người kia già, người kia bệnh, người kia chết không có gì quan trọng đối vớichúng ta. Ðây là quan niệm hời hợt cho nên đức Phật bảo chúng sanh si mê.

Ðức Phật thấy ngườigià, người bệnh, người chết Ngài liền tỉnh ngộ ta cũng sẽ như vậy, đó là việcchung chớ không phải việc riêng. Ngài nghĩ rằng đã có sanh ra rồi phải già,bệnh, chết. Lớp trước đã đến, lớp sau sẽ đến, ai cũng đến đó. Chẳng lẽ chúng tasanh ra ở đời để chờ đến một ngày chôn vùi dưới đất hay sao? Chúng ta phải làmsao thoát ra khỏi luật vô thường chi phối con người như thế. Vì vậy đức Phật khôngkham chấp nhận cái già chết đến với Ngài, phải làm sao để thoát ra khỏi nó. Ðólà lý do, mục đích mà Ngài đi tu.

Do đó khi đi tu gặpcác vị tiên dạy, nào là pháp Tứ thiền, pháp Tứ không v.v... Các pháp đó Ngài đãđạt được nhưng vẫn chưa thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết nên Ngài từ giã họ rađi. Sau đó đức Phật tu khổ hạnh vì nghĩ rằng nếu tận lực tu khổ hạnh có thể đờimình sẽ đạt được mục đích giải thoát sanh tử. Qua mấy năm trời khổ hạnh, kếtquả chỉ đưa Người đến chỗ kiệt quệ, té xỉu không còn sức lực nữa. Ngài thấy đólà một quan niệm sai lầm. Nếu càng khổ hạnh chỉ càng đưa đến cái chết chớ khôngcứu được mình, được người. Ngài liền từ bỏ khổ hạnh và đến cội bồ-đề ăn uốngtrung hòa, tức ngày ăn một bữa và tọa thiền.

Dưới cội bồ-đề(tất-bát-la) Ngài lấy một ít cỏ trải tòa ngồi, khi trải cỏ xong, Ngài chỉ câytất-bát-la thệ nguyện rằng: "Ta ngồi dưới cội cây này nếu không đạt đượcđạo thì dù xương tan thịt nát cũng không rời khỏi nơi đây." Vì có lời thệnguyện mãnh liệt đó nên suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền định dưới cội bồ-đề,Ngài liền được giác ngộ.

Nói đức Phật thànhPhật là thành cái gì? Ðây là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. Khi Ngài ngồitu dưới cội bồ-đề đến đêm thứ bốn mươi chín, từ đầu hôm đến hết canh một Ngàichứng được Túc mạng minh. Túc là đời trước, mạng là sanh mạng, minh là sáng.Sáng ra được những việc trong nhiều đời nhiều kiếp về trước, tại sao Ngài sángra lẽ đó? Bởi khi Ngài đi tu, vì muốn giải thoát sanh tử nên Ngài đặt ra vấnđề: Trước khi ta có mặt ở đây ta là gì, ở đâu đến? Sau khi chết ta sẽ về đâu?Muốn dứt hết cội gốc sanh tử này ta phải làm sao? Ðó là ba nghi vấn về số phậncon người của Ngài.

Hiện giờ chúng ta cómặt ở đây nhưng trước kia chúng ta ở đâu, ta là gì? Khi thân này hoại chúng tasẽ về đâu, còn hay hết? Muốn thoát ly sanh tử chúng ta phải làm sao, tìm cáchgì để thoát ly sanh tử? Ðó là ba nghi vấn tối quan trọng ai cũng thắc mắc. Khiđức Phật chứng được Túc mạng minh rồi, Ngài nhìn lui về quá khứ thấy vô số kiếpvề trước Ngài đã từng làm gì, ở đâu, tu hành hạnh nào, có được những công đứcgì v.v... nhớ rõ mồn một những việc đã qua.

Trong kinh A-hàm kểlại rằng, Ngài nhớ những sự việc cả muôn ức kiếp về trước như chúng ta nhớnhững sự việc mới xảy ra hôm qua, hôm kia vậy thôi. Vì vậy khi chứng được Túcmạng minh rồi Ngài liền giải được cái nghi tại sao chúng ta có mặt ở đây, trướckia ta là gì. Ngày nay chúng ta đọc trong kinh Bản Sanh và Bản Sự kể lại cuộcđời đức Phật và cuộc đời các vị đệ tử của Phật, đó là do Phật chứng được Túcmạng minh, Ngài thuật lại để làm gương mẫu, nhắc nhở người sau tu. Ðây là minhthứ nhất.

Tới canh ba, Ngàichứng Thiên nhãn minh, thấy suốt được những vật hết sức nhỏ nhiệm, hết sức xaxôi, quá tầm thấy biết của người thường. Thấy rõ con người sau khi chết bị nghiệpdẫn đi luân hồi trong sáu đường. Trong kinh kể sau khi Phật chứng được Thiênnhãn minh, Ngài nói: "Ta thấy chúng sanh đi trong luân hồi Lục đạo nhưngười đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba đường, thấy kẻ đi qua, người đi lạimột cách rõ ràng, không có nghi ngờ gì cả." Thế là Ngài giải được cái nghivấn thứ hai, sau khi chết chúng ta đi về đâu. Chúng ta sẽ theo nghiệp lành,nghiệp dữ mà sanh trong cõi trời, cõi người (lành), địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh(dữ) chớ không phải hết.

Ðây là một lẽ thật, dochứng Thiên nhãn minh mà Phật thấy được những việc nhỏ nhiệm vô cùng. Ngài thấyvô số vi trùng, Phật cách chúng ta hơn hai mươi lăm thế kỷ mà Ngài thấy được vitrùng. Vì vậy chư Tăng khi uống nước, nhất là nước không lọc, không nấu thìPhật dạy phải quán. Quán thế nào? "Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứthiên trùng v.v..." Phật nhìn trong bát nước có tám muôn bốn ngàn vitrùng. Ngày xưa Phật nói nước có vi trùng ai mà tin, vì con mắt phàm làm saothấy!

Phật do thấy mà nóinhưng chúng ta không tin, nên biết cái thấy của Ngài với cái thấy của chúng takhác xa vô cùng. Phật nhìn trong bầu hư không Ngài thấy vô số thế giới khôngthể tính kể, nên trong nhà Phật có từ hằng hà sa số thế giới không thể tính kể,nghĩa là thế giới nhiều như cát sông Gange ở Ấn Ðộ. Phật thấy trong bầu hưkhông này, những hành tinh như quả địa cầu của chúng ta nhiều không thể kể hết.Ðó là minh thứ hai.

Ðến khi sao Mai vừamọc Ngài bừng ngộ chứng được Lậu tận minh. Lậu là rớt, tận là sạch, nghĩa làsạch hết, không còn mầm rơi rớt trong sanh tử nữa, tức là không còn rơi lạitrong tam giới Lục đạo. Như vậy sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài đã đạtđược mục đích giải thoát sanh tử. Ngài biết rõ nguyên nhân nào dẫn chúng ta đitrong luân hồi sanh tử và làm sao dứt sạch được nguyên nhân đi trong luân hồisanh tử đó, đây gọi là chứng được Lậu tận minh. Khi chứng được minh này, đứcPhật tuyên bố Ngài hoàn toàn giác ngộ, thành Phật.

Như vậy Phật thànhPhật là do Ngài giác ngộ được nơi con người, biết được mình từ đâu đến, khichết rồi sẽ ra sao về đâu, muốn dứt hết sanh tử phải làm cách nào, tu pháp gì.Ngài biết rõ hết những điều đó, Phật đã đạt được mục đích khi Ngài đi tu làgiải thoát sanh tử. Sau khi chứng được Tam minh, Phật rất hoan hỉ vì đã đạtđược mục đích.

Ngài nhớ lại những ngườibạn đồng tu với mình trước kia (năm anh em Kiều-trần-như) nên Ngài đi tìm nhữngvị đó. Ðến vườn Lộc Uyển gặp năm anh em Kiều-trần-như, Phật liền thuyết bàipháp Tứ Ðế. Ðây là bài pháp nói về nguyên nhân đưa chúng ta đi trong sanh tử vàlàm sao chúng ta dứt được cội mầm sanh tử. Ở đây tôi chỉ nói đơn lược cho quívị có khái niệm thôi, Phật dạy sở dĩ chúng ta có luân hồi sanh tử là do Tập đế.Từ Tập đế là nhân rồi đưa đến Khổ đế là quả, Tập đế và Khổ đế là nhân quả theochiều luân hồi sanh tử. Làm sao chúng ta thoát ly được luân hồi sanh tử?

Phật dạy chúng ta ứngdụng phương pháp tu hành để diệt hết tập nhân, phương pháp diệt tập nhân là Ðạođế, diệt hết tập nhân rồi thì chúng ta được Diệt đế, Diệt đế là Niết-bàn, thoátly sanh tử. Những pháp đức Phật giác ngộ được trong đêm thứ bốn mươi chín nếunói đủ thì rất nhiều, nhưng nói gọn trong Tam minh là Túc mạng minh, Thiên nhãnminh và Lậu tận minh. Tức Phật giác ngộ được ba vấn đề lớn mà Ngài đã thắc mắcvề con người, gọi là giải thoát sanh tử.

Như vậy tất cả chúngta không ai còn nghi ngờ gì nữa, đức Phật tu Thiền dưới cội bồ-đề được giác ngộthành Phật và đem điều giác ngộ đó giáo hóa chúng sanh. Nghĩa là đức Phật nhântu Thiền mà được giác ngộ. Do đó, sau khi Ngài thành Phật rồi, Ngài dạy đệ tửTăng cũng như Ni đều tu Thiền mà chứng quả A-la-hán. Trong kinh Pháp Cú, Phậtdạy rằng: Hãy tu định, chớ buông lung. Tâm chớ mê hoặc theo dục. Ðừngđợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than thở. Hoặc: Không có trí tuệ thìkhông có thiền định, không có thiền định thì không có trí tuệ. Người nào gồm đủthiền định và trí tuệ thì gần đến Niết-bàn.

Như vậy quí vị thấyPhật răn các Tỳ-kheo phải tu thiền định, chớ buông lung, tâm đừng mê hoặc chạytheo ngũ dục, đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn than thở. Lúc nàonuốt hòn sắt nóng? Là lúc xuống địa ngục. Nếu hiện đời chúng ta không chịu tuđể sau khi chết đọa vào địa ngục, chừng đó than thở không kịp. Cho nên ngay bâygiờ, trong lúc chúng ta đang khỏe mạnh, chúng ta còn đủ điều kiện để tiến tu,phải cố gắng tu đừng có chần chờ, sau này hối hận không kịp. Nhờ những lời dạy,lời răn đe đó nên các đệ tử đương thời của Ngài tinh tấn tu hành, chứng đượcquả A-la-hán rất nhiều. Ðó là tôi nói những vị Tỳ-kheo trong thời đức Phật.

Kế đó nhìn lại lịch sửchư Tổ, chúng ta thường lạy Tây thiên Ðông độ Việt Nam lịch đại Tổ sư, nghĩa lànhững vị Tổ sư từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa đến Việt Nam, những Tổ sư đó tu pháp gì?Cụ thể nhất là bây giờ chúng ta hay thờ Tổ Ðạt-ma. Ngài là vị Thiền sư thứ haimươi tám ở Ấn Ðộ và là vị Tổ thứ nhất ở Trung Hoa. Như vậy chư Phật tu Thiềnđược giác ngộ, chư Tổ cũng tu Thiền được thành Tổ, chư vị A-la-hán tu Thiền màthành tựu đạo quả. Vậy pháp tu Thiền nhất định là pháp gốc của đạo Phật rồi.

Về mặt giáo lý hệNguyên thủy có hai: Hệ A-hàm dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán gọi là Agama,hệ Pali dịch từ chữ Pali sang chữ Việt gọi là Nikaya. Trong đó Bát chánhđạo nằm trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thể hiện cụ thể nhất tinh thần tuThiền, từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp v.v... cho tớichánh niệm, chánh định. Chánh niệm tức phải giữ tâm niệm chân chánh, ngay thẳngrồi đi tới chánh định. Về pháp Ngũ căn, Ngũ lực thì có năm điều: tín, tấn,niệm, định, tuệ. Tín là lòng tin, tấn là tinh tấn, niệm là chuyên niệm, định làthiền định, cuối cùng tuệ là đạt được trí tuệ. Như vậy các pháp theo hệ Nguyênthủy cũng nhắc chúng ta tu thiền định và trí tuệ là gốc.

Chúng ta hiện giờ họctheo pháp Ðại thừa (ngày nay gọi là hệ Phát triển) tu Lục độ: bố thí, trì giới,nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Trong đó, cuối cùng là thiền định vàtrí tuệ. Như vậy tất cả pháp của Phật từ hệ Nguyên thủy đến Phát triển đều lấythiền định và trí tuệ làm căn bản chớ không thể nào khác hơn được, đó là cáigốc. Ðây là vấn đề mà ngày xưa tôi đã nặng lòng, phải lo nghĩ nhiều.

Sau những năm tôi đigiảng tại các Phật học viện Huệ Nghiêm, Ðại học Vạn Hạnh, tôi thấy rằng baonhiêu sở tri mà tôi học được trong kinh tôi đã đem chỉ dạy cho Tăng Ni, nhữngthứ đó chỉ là kiến giải bên ngoài, còn chứng nghiệm trên sự tu thì thật tôikhông có thì giờ. Do đó nên năm 1966 sau khi dạy xong khóa học tại Phật họcviện Huệ Nghiêm và ở Dược Sư rồi, tôi xin nghỉ dạy lên núi tu một thời gian.Khi lên núi tu tôi quyết tâm và thệ nguyện rằng nếu phen này không phát minhđược điều gì mới, thà là tôi chết luôn trong thất chớ quyết không xuống núi. Dothệ nguyện đó mà thời gian tu tôi thấy thật sự có kết quả, tôi vui vẻ nên mởcửa thất. Bởi vì như tôi đã nói tôi là kẻ nợ của Tăng Ni nên điều gì tôi thấyhay, tôi làm thinh không được, tôi phải làm sao cho Tăng Ni cùng chia xẻ đượcđiều đó. Cho nên dù chỉ qua một năm nhưng tôi thấy có những cái hay, những cáimới, tôi liền ra thất và lập Thiền viện Chân Không vào năm 1969. Ðến năm 1971chúng tôi khai giảng khóa đầu. Tôi cương quyết khẳng định, ngày xưa tổ tiênmình tu thiền ngộ đạo thì ngày nay mình tu thiền chắc chắn cũng sẽ ngộ đạo, chỉcó chúng ta siêng tu hay lười nhác không chịu tu mà thôi.

Ngày nay đa số cácchùa hay nói câu này: "Thời bây giờ là mạt pháp tu không tiến được, thôichỉ một câu niệm Phật rồi chờ vãng sanh bên kia làm tôi tớ Phật A-di-đà khỏehơn, chớ tu Thiền không tiến, không thể tu được." Nói thời mạt pháp tôilại đâm ra nghi ngờ, trong kinh Phật có chia ba thời: chánh pháp, tượng pháp,mạt pháp. Chánh pháp là thời của đức Phật, một trăm người tu thì một trăm ngườichứng đạo vì đức Phật trực tiếp hướng dẫn. Kế thời đức Phật là thời tượng pháp,tức sau khi Phật nhập Niết-bàn, những vị đệ tử chứng quả A-la-hán hướng dẫn mộttrăm người tu thì có chừng năm mươi người chứng. Sau một ngàn năm tới đời mạtpháp thì trong muôn người tu chưa có một người chứng.

Nhưng bây giờ tôi nhìnkhác một chút, tôi cho rằng chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con người chớ khôngphải thời gian. Ngày xưa đức Phật còn tại thế, khi Ngài giảng kinh Pháp Hoa cónăm trăm thầy Tỳ-kheo thối tịch. Ðọc sử kỹ quí vị thấy trong thời Phật còn tạithế, thỉnh thoảng cũng có các thầy Tỳ-kheo xin hoàn tục. Hoàn tục là tu khôngđược, tu không được thì đối với những vị đó là thời mạt pháp, không luận vàolúc nào cả. Còn bây giờ thời mạt pháp nhưng ai cương quyết liều chết tu hành,quyết phải đạt đạo, phải có kết quả thì đối với những người ấy đây là thờichánh pháp. Chánh pháp hay mạt pháp gốc ở con người hơn là ở thời gian. Vậy màchúng ta cứ lệ thuộc vào thời gian rồi buông xuôi, tự than đời mình mạt pháp,tu sơ sơ để gieo duyên. Ngày tụng hai thời kinh, tối xem ti vi cho đỡ buồn,niệm Phật chờ chết Phật đón về Cực lạc cho khỏe, cứ nhàn nhàn vậy thôi. Lỗi ấylà vì cứ nghĩ thời mạt pháp nên không nỗ lực.

Tôi thì ngược lại, đờimạt pháp khó tu ta phải nỗ lực cố gắng tu nhiều hơn bằng hai, bằng ba, nhấtđịnh chúng ta sẽ có kết quả không nghi. Cho nên đối với tôi đời mạt pháp khôngquan trọng, quan trọng chỗ phát tâm mạnh yếu của chúng ta. Vì thế khi truyền bátu Thiền tôi cố gắng tuyên dương, cố gắng kêu gọi chư Tăng Ni cũng như quí Phậttử nhìn thật kỹ, thấy thật rõ cốt tủy của đạo Phật để chúng ta tu, không nênmặc cảm như tôi lúc trước.

Ðến đây tôi muốn nóiđến Phật giáo Việt Nam của chúng ta một chút. Chư Tổ Việt Nam ban đầu từ thế kỷthứ hai, thứ ba mãi đến thế kỷ thứ mười chín, các ngài lãnh đạo Phật giáo ViệtNam đều là Thiền sư hết, như ngài Khương Tăng Hội, Mâu Bác v.v... cho tới cuốithế kỷ thứ mười chín là Tổ Liễu Quán ở miền Trung đều là Thiền sư. Ðất nướcViệt Nam thời bấy giờ Tăng Ni tu Thiền và Thiền sư lãnh đạo Phật giáo. Chỉ từcuối thế kỷ thứ mười chín qua thế kỷ hai mươi chúng ta mới chuyển sang Tịnh độ.

Như vậy trước kia chưTổ Việt Nam đều tu Thiền, nên hiện giờ mỗi khi quí Hòa thượng tịch, chúng tathường được nghe đọc tiểu sử quí ngài thuộc dòng Lâm Tế chánh tông hoặc Lâm Tếgia phổ v.v... Vậy Lâm Tế là ai? Là một vị Thiền sư ở Trung Hoa lập ra dòngthiền Lâm Tế. Ngài ở vào đời Ðường cách chúng ta khoảng một ngàn năm. Khi nói"từ Lâm Tế" tức là nối dòng Lâm Tế mà hỏi Tổ Lâm Tế là người nào, tupháp gì thì chắc chúng ta cũng không biết luôn.

Như vậy có thể nói từđức Phật cho đến các đệ tử lớn của Ngài và chư Tổ sau này đều lấy tu Thiền làmcăn bản. Rõ ràng gốc của đạoPhật là tu Thiền. Nếu chúng ta tu pháp khác cũng không ngại gì, nhưng đối vớiThiền chúng ta cũng phải nghiên cứu, phải biết cho rõ ràng. Gần đây những lầnđược đi nước ngoài trở về tôi đều thấy rằng, người nước ngoài, nhất là ngườiTây phương hiện nay muốn nghiên cứu đạo Phật thì đa số nghiên cứu về Thiền, chỉmột số ít người đi theo Mật tông ở Tây Tạng. Vì sao vậy? Vì họ thấy được thiềnđịnh là cội gốc của đạo Phật, giới trí thức Việt Nam chúng ta cũng vậy. Khi họmuốn nghiên cứu Phật giáo họ cũng thích nghiên cứu tu Thiền. Thế nên hiện giờchúng ta làm Phật sự, hướng dẫn Phật tử tu, dù chúng ta không tu Thiền, chúngta tu Tịnh độ đi nữa cũng phải nghiên cứu về Thiền để hướng dẫn Phật tử hâm mộtu Thiền đúng pháp, không làm mất tín tâm của họ.

Khi hiểu được Phậtgiáo Việt Nam ngày nay nối pháp các hệ phái từ thuở trước, mang tinh thần Thiềntông rất là đậm nét, chúng ta càng phải trân trọng, càng phải nghiên cứu nhiềuhơn, sâu hơn. Chúng ta biết rõ rồi nếu tu theo thì tốt, còn không tu thì cũnggiải thích cho mọi người không bị lầm. Ðiều này tôi mong tất cả chư Tăng Ni vàPhật tử chịu khó nghiền ngẫm thật kỹ. Nếu không thì chúng ta nói tu theo đạoPhật mà gốc của đạo Phật là tu Thiền chúng ta lại không biết. Ðó là chúng ta bịmất gốc.

Ngày nay trình độ vănhóa của xứ sở chúng ta ngày mỗi tiến, mỗi vươn lên. Ðời của tôi hay của quí vịthế hệ kế tiếp do không đủ phương tiện, không được học nhiều nhưng con em củachúng ta hiện nay và mai kia học rất giỏi, biết nhiều hơn chúng ta. Nếu chúngta không khéo chỉ dạy đạo Phật một cách sáng sủa, cao siêu thì con cháu chúngta sẽ không theo đạo Phật mà chúng lại xem thường đạo Phật, đó là lỗi lớn củachúng ta. Vậy mong tất cả Tăng Ni gắng tu, gắng học để mai này chúng ta xứngdanh lãnh đạo Phật giáo Việt Nam và hướng dẫn con cháu chúng ta thấu hiểu đượcPhật giáo một cách đúng đắn, sáng suốt.

Ðó là mục đích mongmỏi của chúng tôi, cầu mong Tam Bảo gia hộ cho tất cả quí vị tinh tấn tu hành,thành tựu được ý nguyện của mình trên bước đường tu hành.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 9161)
Cuối cùng ngày mong đợi cũng đến: Hành hương Tích Lan 02.07.2011 - 14.07.2011. Từ Thụy Sĩ xa xôi, một mình lẻ loi như cánh chim lạc đàn, tôi tìm về tổ ấm nhập đàn cùng thầy, bạn, những người quen và những người chưa quen ở Đức. Một chuyến đi xa, hành hương đến một nước xa lạ chưa hề nghĩ có ngày đặt chân tới, tôi háo hức như đứa trẻ sắp được mặc áo mới, hay cô dâu sắp về nhà chồng. Chuyến bay cất cánh từ phi trường Frankfurt Đức quốc lúc 22.40 thuận lợi cho tôi đủ nhân duyên để tham dự chuyến hành hương này.
16/09/2013(Xem: 7544)
Vấn đề tôi nói hôm nay là một chữ XẢ. Quí vị biết ngược với xả là gì không? Là cố chấp, nắm chặt. Cố là chặt, chấp là nắm; cố chấp là nắm chặt. Khác với nắm chặt là buông bỏ.
16/09/2013(Xem: 8630)
Hồ Bodensee tiếp giáp ba nước Áo, Đức, Thụy Sĩ vẫn còn đó, nhà Thi Thi ( Thi Thi Hồng Ngọc ) vẫn còn kia, trái đất tròn vẫn luôn tròn không méo, cho nên, chúng tôi hẹn gặp lại nhau không khó.Chỉ khó chăng tại lòng người “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông „.Vâng, đúng vậy, tôi đã lừng khừng nửa muốn nửa không, ngán ngẫm khi nghĩ phải lủi thủi kéo valy một mình dù đoạn đường không dài, chỉ hai tiếng xe lửa từ nhà tôi qua Thi Thi rồi đến tu viện Viên Đức.
13/09/2013(Xem: 13303)
Mỉm cười không mệt, giận hờn mới mệt Yêu thương không mệt, ghen ghét mới mệt
13/09/2013(Xem: 11144)
Có lẽ Chủ tịch Jim Young Kim thấy nhân viên của World Bank (WB) đang bị sức ép thay đổi đè nặng lên vai nên đã đích thân mời Thiền sư Thích Nhất Hạnh tới thăm và nói chuyện.
07/09/2013(Xem: 6688)
Vào những năm 1974-1996, khi ấy tôi còn ở một ngôi chùa tọa lạc ngoại vi Thành phố. Trước đó, ngôi chùa nầy có một lần trùng tu lại, vì nguyên thủy của nó chỉ xây dựng bằng phương tiện vật liệu nhẹ như; mái, vách tôn, cột, kèo bằng gỗ thao lao, nền chùa lót bằng gạch tàu trông vẽ đơn sơ, mặt sân đất thoáng rộng, dân cư chung quanh còn thưa thớt lắm, nên không gian ở đây còn yên tĩnh hơn bây giờ nhiều.
07/09/2013(Xem: 8779)
Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.
06/09/2013(Xem: 8634)
Lý số, đông y là nghề của bố chồng tôi. Không rõ nhờ cụ thực tài hay tại hành nghề miễn phí, không nhận thù lao của khách nên khách của cụ khá đông. Một ngày, năm đó tôi vừa 23 tuổi, có một vị khách đặc biệt đến nhà giữa lúc bố tôi đi vắng. Vị khách tướng tá khác phàm, râu tóc bạc phơ, cốt cách như một tiên ông. Cụ mặc chiếc áo dài the, đầu đội khăn đóng như bố chồng tôi vậy, tay cụ cầm gậy trúc và tự xưng là bạn của bố tôi mặc dù xưa nay tôi chưa hề gặp cụ bao giờ. Tôi mời cụ vào nhà.
04/09/2013(Xem: 8801)
Con người ta có nhiều cái sợ, như sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ vợ hay chồng bỏ, sợ thất nghiệp, sợ nghèo, sợ đói, sợ nhiều thứ, v.v… Trong những cái sợ này có cả sợ ma. Không phải chỉ có con nít mới sợ ma mà nhiều người lớn cũng sợ ma. Muốn hết sợ ma thì cần phải suy tư về thực chất của sợ và ma.
04/09/2013(Xem: 15511)
Xuôi dòng Cửu Long đậu bến Elbe. Nếp Chùa Việt trên đất khách. Vom Mekong an die Elbe. Buddhistisches Klosterleben in der vietnamesischen Diaspora.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]