Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Tản mạn về chữ Chánh

07/02/201109:32(Xem: 11177)
09. Tản mạn về chữ Chánh

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549
-09-

Tảnmạn về chữ Chánh

Thỉnhthoảng, trên các diễn đàn Phật Giáo của mạng truyền thôngInternet, chúng tôi thấy có nhiều ý kiến bàn luận về chữChánh và Chánh Kiến trong Bát Chánh Đạo. Ở đây, xin mạnphép được đóng góp vài dòng tản mạn.

Theokinh nghiệm, mỗi khi chúng ta bàn về từ ngữ Phật Pháp, nhấtlà từ ngữ Hán Việt trong kinh điển, dịch từ nguồn nguyênthủy Pāli và Sanskrit, ta cần lưu ý đến cách chọn lựa thuậtngữ của các vị cao tăng dịch giả ngày xưa, bởi vì cácngài dùng những thuật ngữ phiên dịch để quảng bá giáolý của Đức Phật cho dân chúng thời đó, có thể nhữngthuật ngữ đó không còn thích hợp trong bối cảnh thời nay,hoặc ý nghĩa chữ dùng có thể đã thay đổi theo năm tháng.

Chonên, rất khó mà tìm một câu trả lời phổ quát cho câu hỏi:Thế nào là Chánh? Tùy theo ngữ cảnh và mạch văn, Chánh cónhiều ý nghĩa khác nhau. Ở đây, chúng tôi xin giới hạn chữChánh trong ý nghĩa của Bát Chánh Đạo như Đức Phật đãgiảng dạy. Trong phạm vi đó, theo thiển ý, Chánh - dịch theochữ Pāli Sammā - là những gì có ích lợi và cần thiếtcho sự hành trì để tận diệt khổ đau, đưa đến giảithoát, giác ngộ.

BátChánh Đạo là con đường có 8 yếu tố - mỗi yếu tố cótên gọi bắt đầu bằng chữ Chánh. Thật ra, danh từ BátChánh Đạo chỉ là một lối dịch thoát, không sát nghĩa.Chữ Pāli là Ariya atthangika-magga, có nghĩa là con đườngthánh (cao sang) gồm có 8 chi phần, tiếng Anh dịch là "theNoble Eightfold Path". Trong các bản dịch Kinh tạng, Hòa thượngThích Minh Châu dịch là "Thánh đạo Tám ngành". Tuy nhiên,vì danh từ Bát Chánh Đạo rất phổ thông trong hàng Phậttử chúng ta, nên chúng tôi thường dịch là Con Đường TámChánh.

*

CònChánh Kiến là gì? Là nhìn đúng, thấy đúng. Nhưng nhìn đúngnhư thế nào? Tùy theo ngữ cảnh và mục đích, trong sinh hoạtvăn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị, luân lý, lịch sử,v.v., chúng ta thấy có thể có nhiều cái đúng khác nhau, cókhi tương hợp, có khi tương phản. Tuy nhiên, lồng trong BátChánh Đạo, Chánh Kiến là cái nhìn, cái thấy, cái hiểu biếtnhư thế nào để mang lại lợi ích cho con đường hành trì,diệt khổ ưu, đưa đến hạnh phúc an lạc, tiến đến giácngộ giải thoát. Đức Phật đã giảng rõ ràng về các yếutố Chánh - kể cả Chánh Kiến - của Bát Chánh Đạo, trongnhiều bài kinh. Xin chép lại ở đây, một đoạn kinh trongTương Ưng bộ, Tập 5, để chúng ta cùng nhau ôn lại địnhnghĩa của Bát Chánh Đạo:

-"Này các vị Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Đó làsự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân củakhổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểuvề con đường diệt khổ.

Thếnào là chánh tư duy? Đó là tư duy về ly dục, tư duy về vôsân, tư duy về vô hại.

Thếnào là chánh ngữ? Đó là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hailưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm.

Thếnào chánh nghiệp? Đó là từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy củakhông cho, từ bỏ hành động tà dâm.

Thếnào là chánh mạng? Đó là đoạn trừ tà mạng, nuôi sốngvới chánh mạng.

Thếnào là chánh tinh tấn? Đó là tinh tấn ngăn chận không chokhởi sanh các bất thiện pháp chưa sanh, tinh tấn trừ diệtcác bất thiện pháp đã sanh, tinh tấn phát khởi các thiệnpháp chưa sanh, và tinh tấn duy trì các thiện pháp đã sanh.

Thếnào là chánh niệm? Đó là sống quán thân trên thân, nhiệttâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sốngquán thọ trên thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọitham ưu trên đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnhgiác, điều phục mọi tham ưu trên đời; sống quán pháp trêncác pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, điều phục mọi tham ưu trênđời.

Thếnào là chánh định? Đó là ly dục, ly pháp bất thiện, chứngvà trú Thiền-na thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do lydục sanh, có tầm, có tứ; rồi làm cho tịnh chỉ tầm vàtứ, chứng và trú vào Thiền-na thứ hai, một trạng thái hỷlạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm;rồi ly hỷ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sựlạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứngvà trú vào Thiền-na thứ ba; rồi xả lạc, xả khổ, diệthỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào Thiền-na thứtư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh."

Chonên, để trả lời câu hỏi thế nào là Chánh Kiến, chúngta có thể ghi lại lời của Đức Phật: Đó là thông hiểuvề khổ (Khổ), thông hiểu về nguyên nhân của khổ (Tập),thông hiểu về sự diệt khổ (Diệt), và thông hiểu về conđường diệt khổ (Đạo).Hay nói tóm tắt, Chánh Kiếnlà cái nhìn đúng đắn về Tứ Diệu Đế.

Trongkinh Chánh Tri Kiến (Sammāditthi sutta), bài kinh số 9 thuộcTrung Bộ, Ngài Xá-lợi-phất đã giảng cặn kẽ về địnhnghĩa của Chánh tri kiến là:

-Tuệ tri bất thiện và căn gốc của bất thiện.
-Tuệ tri thiện và căn gốc của thiện.
-Tuệ tri được thức ăn, gồm đoàn thực, xúc thực, thứcthực và tư niệm thực; và căn gốc của thức ăn.
-Tuệ tri khổ trong tiến trình khổ-tập-diệt-đạo.
-Tuệ tri từng chi phần Duyên khởi, theo vòng ngược, từ giàchết, rồi sinh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu nhập, danh sắc,thức, hành, vô minh, và lậu hoặc.
Khi vịthánh đệ tử tuệ tri như vậy, vị ấy đoạn trừ tất cảtham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiếnmạn tùy miên "Tôi là", đoạn trừ vô minh, khiến minhkhởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại. Như thế,vị ấy có chánh tri kiến, có tri kiến chánh trực, có lòngtin Pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp.

*

Nóiđến Chánh Kiến thì chúng tôi lại nghĩ đến chữ Tuệ. Chúngta thường nghe nói "Đạo Phật là đạo của Trí tuệ".Tuệ được hiểu theo nhiều nghĩa, và thường dùng chung vớivài chữ khác, để có những ý nghĩa, cường độ khác nhau,chẳng hạn như: trí tuệ, tuệ giác, tuệ tri, tuệ minh sát,tuệ giải thoát, v.v. Trong phạm vi Bát Chánh Đạo, Tuệ đượcdùng để chỉ tập hợp của 2 yếu tố: Chánh Kiến (về Tứdiệu đế) và Chánh Tư Duy (dựa trên ly dục, vô sân, vô hại),và là một trong Tam Vô Lậu Học (Giới-Định-Tuệ).

Sởdĩ chúng tôi đề cập đến Tuệ là vì mỗi khi có dịp thamgia trong các nhóm tu học, tìm hiểu hoặc bàn luận về cácđề tài phức tạp trong đạo Phật - chẳng hạn như về duythức, Như lai tạng, Phật tánh, bát-nhã, công án thiền, khôngtánh, bất nhị, đại thừa, tiểu thừa, phàm ngã, chân ngã,v.v. - chúng tôi thường bị lôi cuốn vào các cuộc bàn luậnsôi nổi, hấp dẫn, hào hứng đó. Vì vậy, thỉnh thoảng,chúng tôi phải dừng lại và tự hỏi lòng mình: - Nhữngkiến thức như thế có lợi ích gì cho mình, có giúp tăngtrưởng Trí Tuệ, dựa trên Chánh Kiến và Chánh Tư Duy theonhư định nghĩa của Đức Phật trong Bát Chánh Đạo, đưađến giải thoát, giác ngộ, hay không?Tự nhắc nhở nhưvậy cũng là một phương cách tốt, giúp cho mình tránh khỏicác hý luận, tranh cãi vô ích.

Nhânđó, chúng tôi lại nhớ đến lời Phật dạy về pháp nhưlý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩ của mình saocho có lợi lạc trên đường tu tập, như đã ghi lại trongbài kinh "Tất cả các lậu hoặc" (Sabbāsava sutta), kinhsố 2 của Trung Bộ:

-"Này các Tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý vàvị ấy tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấytác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậuđã sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanhkhởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậuchưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừdiệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tácý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tácý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưasanh không sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừdiệt.

Vịấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổtập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðâylà con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý nhưvậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giớicấm thủ. Này các Tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là phápdùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc."

*

Nhânkhi ghi lại lời giảng của Đức Phật, về định nghĩa 8yếu tố của Bát Chánh Đạo, xin đóng góp thêm ít dòng vềchữ Thiền. Nguyên khởi, thiềnlà âm ngắn của thiền-na,phiên âm từ chữ Phạn "dhyana / jhāna", là nhân tố chínhcủa Chánh Định. Ngày nay, nó đã mang nhiều màu sắc, nhiềuý nghĩa khác nhau, và từ đó, phát sinh nhiều môn phái khácnhau - nhất là từ khi chữ "Zen"trở thành một từ ngữthời thượng. Nhưng thật ra, Zenchỉ là phiên âm củangười Nhật, từ âm Ch'ancủa người Tàu, tức là Thiền.

Trongbối cảnh tu học hiện nay, theo thiển ý, Thiền là đồngnghĩa với nhóm Định của Tam Vô Lậu Học, nghĩa là mộttập hợp của 3 phần tử: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và ChánhĐịnh.

Nếuchúng ta quan niệm rằng Thiền là tập hợp của 3 yếu tốcuối cùng trong Bát Chánh Đạo, thì hành Thiền là pháptu Chỉ-Quán dựa trên một đời sống có giới hạnh trongsạch.Ở đây, Chỉ là Chánh Định, Quán là Chánh Niệm,và đời sống trong sạch là do Chánh Tinh Tấn - nỗ lực tăngtrưởng điều thiện lành, lợi lạc, và trừ diệt điềuxấu ác, không lợi lạc.

TrongTăng Chi Bộ, chương Hai Pháp, phẩm 17, Đức Phật nhấn mạnhđến pháp tu Chỉ-Quán để thông hiểu rõ ràng và tận diệttham, sân, si:

-"Này các Tỳ-khưu, có hai pháp cần phải tu tập. Thế nàolà hai? Chỉ và Quán. Hai pháp này cần phải tu tập để thắngtri tham sân si; để biến tri tham sân si, phẫn nộ, hiềm hận,giả dối, não hại, tật đố, xan tham, man trá, phản trắc,cứng đầu, cuồng nhiệt, mạn, quá mạn, kiêu căng, phóngdật; để biến tận, để đoạn tận, để trừ diệt, đểbiến diệt, để đoạn diệt, để xả bỏ, để từ bỏ thamsân si."

Đọclại lời giảng của Đức Phật về Chánh Niệm và Chánh Định,ta thấy hai yếu tố nầy tương hợp, bổ sung cho nhau, khôngthể tách rời, không thể biệt lập. Theo định nghĩa, ChánhĐịnh là pháp luyện tâm, chế ngự các triền cái, đưa tâman trú vào các tầng thiền-na, và lúc nào cũng có chánh niệmtỉnh giác. Cho nên, không thể có chánh định nếu không cóchánh niệm.

Khônghiểu vì duyên cớ gì mà thỉnh thoảng vẫn có người chorằng phát triển thiền-na - hay hành thiền An Chỉ - là pháptu của ngoại đạo. Ở đây, trong tinh thần của Bát ChánhĐạo, Chánh Định được phát triển dựa trên Chánh Kiếnvà một đời sống trong sạch đầy đủ giới đức, thì đókhông thể nào là thiền ngoại đạo. Trong bài Đại Kinh BốnMươi (Kinh 117, Trung Bộ), ngay trong đoạn đầu, Đức Phậtđã khẳng định rằng Chánh Định được phát triển là nhờ7 yếu tố còn lại của Bát Chánh Đạo. Ngoài ra, trong nhiềubài kinh khác, Đức Phật thường khuyên các vị Tỳ-khưu tìmnơi vắng vẻ, ngồi xếp chân, giữ lưng thẳng, để niệmtrước mặt, đem tâm an trú vào các tầng thiền-na, trướckhi phát triển tuệ quán.

Trởsang định nghĩa của Chánh Niệm, chúng ta thường nghe nóiđến "tứ niệm xứ", và thường nghe nhiều người đề cậpđến pháp "thiền tứ niệm xứ", có vẻ như là một lốithiền đặc biệt, riêng rẽ, là con đường duy nhất (theonly way, the sole way)dịch từ chữ ekāyanamaggo, vớihàm ý là không có con đường nào khác. Tuy nhiên, nhiều dịchgiả khác - như Tỳ-khưu Nanatiloka, Tỳ-khưu Bodhi, Tỳ-khưuAnalayo, ông Walshe - không đồng ý như thế. Các vị ấy dịchlà "con đường thẳng"(the direct path)với ý nghĩalà con đường hướng thẳng đến mục tiêu, và mục tiêuấy là Niết Bàn.

Thêmvào đó, đọc lại lời giảng của Đức Phật về bốn phápquán niệm (thân, thọ, tâm, pháp) trong kinh Niệm Xứ (Satipatthānasutta), ta đều thấy có cụm từ điều phục "mọi thamưu trên đời", dịch từ câu Pāli "loke abhijjhā-domanassam".Ngài thiền sư Ajahn Brahmavamso (trụ trì tu viện Bodhinyana, TâyÚc) giải thích dựa theo Chú giải rằng cụm từ đó có thểhiểu là để chỉ sự nhiếp phục năm triền cái. Abhijjhālà đồng nghĩa với triền cái thứ nhất, domanassamlàđồng nghĩa với triền cái thứ nhì, và nếu dùng chung lạivới nhau - trong thành ngữ Pāli - đó là cách viết tắt chonhóm năm triền cái. Ðiều nầy có nghĩa là cả năm triềncái phải được khắc phục trước khi bắt đầu hành trìpháp Quán Niệm. Chức năng của việc đem tâm an trú vào cáctầng thiền-na - chi phần Chánh Ðịnh của Bát Chánh Ðạo- là để nhiếp phục năm triền cái, giúp phát triển tuệMinh sát. Trong bài kinh số 68 của Trung Bộ (Nalakapāna sutta),Ðức Phật dạy rằng khi hành giả chưa đạt các tầng thiền-na,năm triền cái cùng với bất lạc và giải đãi sẽ xâm chiếmtâm và trú tại đó. Chỉ khi nào hành giả đạt vào các tầngthiền-na thì năm triền cái cùng với bất lạc và giải đãimới không xâm chiếm tâm và không trú tại đó.

Tỳ-khưuBrahmavamso giải thích thêm rằng thiền sinh nào đã trực nghiệmđược các tầng thiền-na mạnh mẽ nầy thì ắt đã biếtđược, qua kinh nghiệm bản thân, bản chất thật sự củatâm sau khi các triền cái đã được chế ngự. Thiền sinhnào chưa biết các tầng thiền-na thì chưa hiểu rõ các dạngvi tế của các triền cái. Họ tưởng rằng các triền cáiđã được chế ngự, nhưng thật ra, họ đã không nhận thứcđược chúng, và vì thế, đã không đạt kết quả tốt trongkhi hành thiền.

Cũngxin ghi nhận thêm ở đây là trong kinh Nhất Nhập Đạo thuộcbộ Tăng Nhất A-hàm của Hán tạng, bài kinh tương đươngvới kinh Niệm Xứ của tạng Pāli, có ghi rõ ràng ngay trongđoạn đầu là hành giả phải nhiếp phục năm triền cái.Điều nầy hàm ý là đem tâm an định vào thiền-na, nghĩalà cần phải hành thiền An Chỉ.

Cóquan niệm cho rằng phát triển tuệ quán thì không cần ChánhĐịnh, mà chỉ cần sát-na định (khanika-samādhi, momentaryconcentration), nghĩa là định từng chập, là đủ. Ngoàira, cũng có sách đề cập đến khái niệm về các tầng thiền-naminh sát (vipassanā-jhāna). Không biết các quan niệm đócó được ghi chép trong kinh tạng như là lời dạy của ĐứcPhật hay không? Theo sự hiểu biết thô thiển của chúng tôi,có lẽ các quan niệm đó chỉ được khai triển về sau nầy,do các vị luận sư viết ra trong các bộ chú giải và luậngiải, vào khoảng từ 500 đến 1,000 năm sau khi Đức Phậtnhập diệt.

Ởđây, là phàm nhân cư sĩ còn đang tu học, chúng tôi chỉ cómột thắc mắc rất đơn giản: - Nếu không nỗ lực pháttriển Chánh Định với tâm an trú trong thiền-na, thì chúngta có thực hành trọn vẹn Con Đường Tám Chánh, như ĐứcPhật đã dạy, hay không? Có lẽ mỗi thiền sinh chúng ta phảitự tìm lời giải đáp thỏa đáng và thiết thực cho sựtu tập của mình.

*

Trongbài kinh số 107, thuộc Trung Bộ, Đức Phật giảng cho ngườiBà-la-môn Ganaka Moggallana, tóm tắt con đường tu tập, nhưsau:

-giữ gìn giới hạnh,
-hộ trì các căn,
-tiết độ ăn uống,
-chú tâm cảnh giác,
-thành tựu chánh niệm tỉnh giác,
-tìm nơi thanh vắng để hành thiền,
-nhiếp phục 5 triền cái,
-an trú vào 4 tầng thiền-na.
Thêmvào đó, theo kinh Sáu Thanh Tịnh, Trung Bộ 112, sau khi an trúvào 4 tầng thiền-na, Đức Phật khuyên các vị Tỳ-khưu hữuhọc phải tiếp tục hành trì, phát triển các tuệ minh vàtiến tới giải thoát.

Ngoàira, trong Tương Ưng bộ, Tập 1, Đức Phật dạy:

Ngườitrú giới có trí
Tutập tâm và tuệ

Nhiệttâm và thận trọng

Tỳ-khưuấy thoát triền.
NgàiPhật Âm, trong bộ luận Thanh Tịnh Đạo, giải thích rằng"người trú giới có trí" là người có giới thanh tịnh, cóhiểu biết rõ ràng, dựa trên vô tham, vô sân, vô si. "Tu tậptâm" ở đây là pháp hành thiền an chỉ, "tu tập tuệ" ámchỉ hành thiền minh quán, "tu tập tâm và tuệ" nghĩa là hànhthiền Chỉ-Quán, hay Chỉ-Quán đồng tu. "Nhiệt tâm và thậntrọng" nghĩa là có nhiều nghị lực, tinh tấn và tỉnh giácnhận thức. "Tỳ-khưu" (bhikkhu)ở đây mang một nghĩarộng, không phải để chỉ riêng hàng tu sĩ, mà để chỉngười thấy được sự khốn khổ của sinh tử luân hồi."Thoát triền" là thoát khỏi mọi trói buộc của sinh tử luânhồi. Như thế, qua câu kệ trên, Đức Phật dạy chúng ta phảian trú trong Giới, tu tập Thiền định, phát triển Tuệ quán,để giác ngộ giải thoát.

*

Saucùng, xin giới thiệu một quyển sách căn bản về Phật Pháp.Trong quá trình tu học, chúng tôi thường tham khảo quyển "ĐứcPhật và Phật Pháp" của Hòa thượng Narada, do cư sĩ PhạmKim Khánh dịch. Quyển này được xuất bản lần đầu tiênvào năm 1964, và được ông Khánh hiệu đính và bổ sung vàonăm 1998. Trong 40 năm qua, quyển sách đã được tái bản nhiềulần và đã mang nhiều lợi lạc cho hàng Phật tử chúng ta.

Thêmvào đó, trong những năm gần đây, chúng tôi lại thích thamcứu thêm quyển "Phật học Khái luận" của Hòa thượng ThíchChơn Thiện. Quyển sách nầy cũng được tái bản nhiều lần,có phát hành tại các nhà sách Phật giáo trong nước và hảingoại. Theo thiển ý, đây là một quyển sách dung hợp cácđiểm căn bản của Nam và Bắc tông, với những trích dẫnkinh điển rõ ràng và nghiêm túc, có ích lợi cho những aimuốn tìm hiểu về các vấn đề chính yếu trong đạo Phật.








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2014(Xem: 7296)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8387)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
13/10/2014(Xem: 10464)
Vào ngày 21 tháng Chín, đông đảo công dân từ khắp nơi trên nước Mỹ, và từ nhiều vùng đất khác, sẽ được hội tụ về thành phố New York tham gia vào cuộc diễu hành về sự biến đổi Khí hậu (The People’s Climate March), đây được cho là cuộc diễu hành vì khí hậu lớn nhất trong lịch sử. Cơ hội trực tiếp cho cuộc diễu hành là sự tập hợp của các nhà lãnh đạo thế giới tại Liên Hiệp Quốc dành cho một hội nghị thượng đỉnh về sự khủng hoảng khí hậu được triệu tập bởi Tổng thư ký LHQ. Mục đích của cuộc diễu hành là báo cho các nhà lãnh đạo toàn cầu biết rằng thời gian để từ chối và trì hoãn đã qua, chúng ta phải hành động ngay nếu chúng ta muốn bảo vệ thế giới chống lại sự tàn phá về sự biến đổi khí hậu.
12/10/2014(Xem: 11343)
Các nhà văn và nhà báo đều có tầm ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Vả lại, dù cho đời người có ngắn ngủi đi nữa thì những gì đã viết cũng sẽ còn lưu lại hàng nhiều thế kỷ. Trong lãnh vực Phật giáo thì những lời giáo huấn của Đức Phật, của ngài Tịch Thiên và của những vị đại sư khác nhờ được ghi chép lại thành văn bản nên đã được lưu truyền qua những thời gian lâu dài để nói lên tình thương yêu, lòng từ bi và những hành vi vị tha phát xuất từ tinh thần Giác ngộ mà cho đến tận ngày nay vẫn còn giúp chúng ta cơ duyên được học hỏi.
11/10/2014(Xem: 8685)
18 giờ tối ngày 9/10/2014, đông đảo Phật tử, doanh nhân, sinh viên và các bạn yêu đọc sách đã được học hỏi rất nhiều từ thiền sư Minh Niệm, tác giả cuốn sách “Hiểu về trái tim” tại nhà sách Thái Hà ( số 119, C5, phố Tô Hiệu, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Cá nhân tôi cũng vậy. Tôi học được rất rất nhiều. Thầy Minh Niệm đã chia sẻ nhiều trải nghiệm sâu sắc, phong phú của chính thầy đến với những ai may mắn có mặt để giao lưu, để lắng nghe. Đối với rất nhiều người, đó là những điều mới mẻ và hữu ích.
10/10/2014(Xem: 8295)
Vào năm 2004 lực lượng Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm toàn bộ khu vực thung lũng Swat, nơi em đang sống bình yên với bố mẹ và hai người em, hằng ngày cắp sách đến trường. Tiếp đó, từ năm 2007, Taliban cấm phụ nữ không nghe nhạc và hạn chế họ lui tới nhiều cơ sở công cộng. Đến 15.01.2009 thì Taliban lại ban hành một sắc lệnh mới cấm các em học sinh nữ đi học, phá hủy khoảng 150 trường học. Thời gian này đài BBC phổ biến một tập nhật ký của một cô gái Pakistan 11 tuổi có tên là Gul Makai bằng tiếng Urdu trên trang Blog của đài BBC. Sau này người ta mới biết được Gul Makai là bút hiệu của Malala Yousafzai.
08/10/2014(Xem: 10213)
Ông Dan Stevenson không phải là một Phật Tử, cũng không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Ông là một người dân cư ngụ trên đại lộ số 11 ở khu Eastlake của Oakland (California.) Vào năm 2009, khi ông đi vào trong cửa tiệm Ace chuyên bán vật dụng sắt thép dùng trong nhà, ông chợt hứng khởi phát tâm và đã bỏ tiền mua một pho tượng đức Phật bằng đá cao 2 feet (khoảng tương đương với hơn 60 cm). Sau đó ông mang về và gắn tượng Phật này vào một góc đường trong khu gia cư giữa đại lộ số 11 và con đường số 19.
06/10/2014(Xem: 9392)
“The History of Sampan” “Chiếc thuyền này thường xuyên được neo tại đây vốn là chiếc thuyền của người Việt Nam di tản, đã dạt vào bờ này với 167 người lớn và trẻ em vào tháng 5-1980 …May thay một thời kỳ non trẻ đã trôi qua, nhiều kinh nghiệm quý báu đã được tổng kết, người ta đã biết đắn đo hơn khi nói về một thời đã qua. Ngày nay Việt Nam là một cộng đồng hòa hợp tốt đẹp hơn xưa, thậm chí còn là chỗ “thích nghi” cho một số người nước ngoài, là “điểm đến” cho doanh nhân và du khách. Có những điều tưởng như giản đơn nhưng con người cần cả một thế hệ mới hiểu hết. Bài học của hòa hợp dân tộc và lòng cởi mở nhân ái ngày xưa của vua Trần dường như bị quên mất sau nhiều thời kỳ chiến tranh và chia cắt khốc liệt, nay cần phải được ôn lại…
29/09/2014(Xem: 7880)
Không học Phật pháp thì không biết đường nào để giải thoát, nhưng cái thấy trong lúc chứng ngộ – tuyệt nhiên không giống với những gì ta đã học. Tấm bản đồ không phải con đường, càng không phải chỗ mình muốn đến. Nhưng bỏ mất nó thì có mà chết, mà ôm cứng lấy nó cũng chết. Muốn tu học ngon lành, hãy hỏi mấy em hướng đạo sinh cách dùng bản đồ.
26/09/2014(Xem: 12496)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền não là tâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận. Và cũng từ đó ánh sáng vô tận khởi hiện. Ánh sáng vô tận trong tâm ta không thể khởi hiện, vì tâm ta chứa đầy phiền não và phiền não đã tạo thành những chủng tử phân biệt và kỳ thị vận hành liên tục ở trong tâm ta, khiến cho mạch sống vô tận bị tắt nghẽn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]