Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Ba giới, sáu đường

07/02/201109:32(Xem: 9551)
04. Ba giới, sáu đường

THƯƠNGYÊU LÀ THÔNG CẢM
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo TL. 2005 - PL. 2549

-04-

Bagiới, sáu đường

Trongđạo Phật, chúng ta thường nghe câu "Ba giới, sáu đườngluân hồi" (tam giới, lục đạo luân hồi). Ðây là mộtcách diễn tả quan niệm về các hình thái hiện sinh của mọiloài luân hồi trong cõi Ta-bà (Samsāra, Sa-bà). Ba giớilà Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Sáu đường luânhồi là sáu loài chúng sinh:

1)chư thiên,
2)loài người,
3)loài a-tu-la,
4)loài ngạ quỷ,
5)loài thú vật,
6)loài đọa địa ngục.
Hai loàiđầu tiên - chư thiên và loài người, được xem như là loàicó nhiều phước báu, còn bốn loài kia chịu những cảnh đọađày, đau đớn.

Riêngchư thiên gồm 26 loài (có sách liệt kê 27 hoặc 28 loài), ởtrong ba cõi giới khác nhau: Dục giới, Sắc giới, và Vô sắcgiới. Loài người và bốn loài đau khổ thì ở trong cõi Dụcgiới. Như vậy, tổng cộng là 31 loài, theo quan niệm củađạo Phật.

Nếuphân loại theo nguồn gốc phát sinh, cõi Ta bà chia làm chínđịa giới (Cửu địa): Dục địa, bốn Sắc địa do đắcbốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna), và bốn Vôsắc địa do đắc bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna).

Tấtcả các loài trong cõi Ta-bà này, kể cả chư thiên, đều phảiqua cảnh sinh, trụ, hoại, diệt, và cùng chịu tám loại khổ(bát khổ), dù rằng có thể có những cường độ và thờigian khác nhau. Đôi khi chúng ta thấy có cụm từ "tam đồ,bát khổ" dùng trong các kinh sách, trong đó, "tam đồ" đồngnghĩa với "tam giới" (dục giới, sắc giới, vô sắc giới).Tám loại khổ đó là:

1)Sinh khổ: khổ do sinh,
2)Lão khổ: khổ do già,
3)Bệnh khổ: khổ do bệnh,
4)Tử khổ: khổ do chết,
5)Ái biệt ly khổ: khổ do xa lìa những gì ta thích,
6)Oán tăng hội khổ: khổ do nối kết với gì ta không ưa thích,
7)Cầu bất đắc khổ: khổ do không được điều ta mong cầu,
8)Ngũ ấm xí thạnh khổ: khổ do hiện hữu năm ấm (sắc, thọ,tưởng, hành, thức).
Sau đâylà bảng liệt kê 31 loài trong cõi Ta-bà, từ cao xuống thấp:

A.Vô sắc giới
(FormlessWorld, Arūpa Loka)

31.Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perceptionnor non-perception;Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā)
30.Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness;Ākiñcañña-yatanūpagādevā)
29.Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Concsiousness;Viññānañca-yatanūpagā devā)
28.Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space;Ākāsānañca-yatanūpādevā)

B.Sắc giới
(Worldof Form, Rūpa Loka)

B1.Tứ thiền

27.Vô song thiên (Peerless devas;Akanitthā devā)
26.Thiện kiến thiên (Clear-sighted devas;Sudassī devā)
25.Thiện hiện thiên (Beautiful or Clearly Visible devas);Sudassādevā)
24.Thanh tịnh thiên (Untroubled devas;Atappā devā)
23.Vô đọa thiên (Devas not Falling Away;Avihā devā)
22.Vô tưởng thiên (Unconscious beings;Asaññā sattā)
21.Quảng quả thiên (Very Fruitful devas;Vehapphalā devā)

B2.Tam thiền

20.Biến tịnh thiên (Devas of Refulgent Glory;Subhakinnā devā)
19.Vô lượng tịnh thiên (Devas of Unbounded Glory;Appamānasubhādevā)
18.Thiểu tịnh thiên (Devas of Limited Glory;Parittasubhādevā)

B3.Nhị thiền

17.Quang minh thiên (Devas of Streaming Radiance;Ābhassarā devā)
16.Vô lượng quang thiên (Devas of Unbounded Radiance;Appamānabhādevā)
15.Thiểu quang thiên (Devas of Limited Radiance;Parittabhādevā)

B4.Sơ thiền

14.Ðại phạm thiên (Great Brahmas;Mahā Brahmā)
13.Phạm phụ thiên (Ministers of Brahmas;Brahma-Purohitā devā)
12.Phạm chúng thiên (Retinue of Brahma;Brahma-Parisajjā devā)

C.Dục giới
(Worldof Sense-Desires, Kama Loka)

11.Tha hóa tự tại thiên (Devas Wielding Power over Others' Creations;Paranimmita-vasavattī devā)
10.Hóa lạc thiên (Devas Delighting in Creation;Nimmānaratīdevā)
09.Ðâu-suất thiên (Contented devas;Tusitā devā)
08.Dạ-ma thiên (Yama devas;Yāmā devā)
07.Ðao-lợi thiên (The Thirty-Three Gods;Tāvatiṁsa devā)
06.Tứ thiên vương thiên (Devas of the Four Great Kings;Catumahārājikādevā)
05.Loàingười
(Human beings; Manussā)
04.Loài a-tu-la (Titans; Asurā)
03.Loài ngạ quỷ (Hungry ghosts;Petā)
02.Loài thú vật (Animals;Tiracchānā)
01.Loài đọa địa ngục (Hells;Nirayā)


Bảngliệt kê trên được dựa theo hai tài liệu: quyển "Đức Phậtvà Phật Pháp" của ngài Hòa thượng Narada (ông Phạm Kim Khánhdịch) và phần giới thiệu trong bản dịch Anh ngữ TrườngBộ Kinh của ông Maurice Walshe (The Long Discourses of the Buddha:A Translation of the Digha Nikaya). Theo đó, loài người chúngta chỉ đứng hàng thứ 5, trên 4 loài khác là địa ngục,thú vật (súc sinh), ngạ quỷ và a-tu-la. Bốn loài sau cùngnày thường được gọi là những chúng sinh trong đọa xứhay khổ cảnh. A-tu-la là loài có nhiều quyền lực nhưng khônghạnh phúc vì có tánh sân hận, thường hay gây chiến vớicác loài khác. Đôi khi có sách không đề cập đến loài a-tu-la,và như thế cõi Ta-bà chỉ có 5 đường thôi (ngũ đạo luânhồi).

Loàingười ở trong một cảnh giới có hạnh phúc và đau khổlẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sinh vào cảnhnầy, vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phụcvụ và thực hành những Pháp cần thiết nhằm thành tựu ĐạoQuả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn ở cảnhngười.

Chưthiên có mặt trong cả ba cõi giới. Có 6 loại chư thiên trongDục giới (hạng số 6 đến 11 trong biểu đồ), trong đó kinhđiển thường đề cập đến cõi trời Đao-lợi và Đâu-suất.Cõi trời Đao-lợi còn gọi là cõi trời Ba Mươi Ba vì ởđó có 33 vị trời mà ngài Đế-thích (Sakka)là thiênchủ. Chính ở nơi đây, theo truyền thuyết, Đức Phật giảngVi Diệu Pháp trong 3 tháng hạ. Cõi trời Đâu-suất là nơilưu ngụ của những vị Bồ Tát đã thực hành tròn đủ cácPháp cần thiết để đắc Quả Phật, chờ cơ hội thích nghiđể tái sinh vào cảnh người lần cuối cùng. Ngài Bồ TátMettaya (Di Lạc), vị Phật tương lai, hiện đang ở cảnh trờinầy, chờ ngày tái sinh vào cảnh người để thành tựu ĐạoQuả Phật. Theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya (Ma-da, TịnhDiệu), mẹ của ngài Bồ Tát Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), sau khichết, tái sinh vào cảnh trời Đâu-suất, và từ đó sang cungtrời Đao-lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp.

TrênDục giới có Sắc giới (rūpa loka), cảnh giới các vịPhạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ tham dục và đangthọ hưởng hạnh phúc của thiền-na (jhāna). Có tấtcả 16 cảnh (số 12 đến 27 trong biểu đồ), tương ứng vớibốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna). Trong đó,5 cảnh giới cao nhất (số 23 đến 27) thường được gọichung là Vô Phiền Thiên (suddavasa)hay Tịnh Cư Thiên,cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệtđối riêng biệt của các vị Bất lai (A-na-hàm, Anāgāmi).Chúng sinh ở trong một cảnh khác mà đắc quả Bất Lai thìtái sinh vào cảnh nầy. Tiếp tục tu tập, các vị ấy đắcquả A-la-hán và sống ở đó cho đến lúc hết tuổi thọ,nhập Đại Niết Bàn.

Caonhất là Cõi Vô sắc giới (arūpa loka)gồm có 4 hạngchư thiên tương ứng với bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpajhāna).

*

Theongài Hòa thượng Narada trong quyển "Đức Phật và Phật Pháp",giáo pháp của Đức Phật không nhằm mục đích truyền bámột lý thuyết về vũ trụ. Dù những cảnh giới trên cóthật hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáolý của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin điều nào, nếuđiều ấy không thích hợp với suy luận của mình. Nhưng chúngta cũng không nên bác bỏ tất cả những gì mà lý trí hữuhạn của con người không thể thấu hiểu tường tận.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 12766)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39570)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8541)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12669)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 63203)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13393)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10164)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8601)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12502)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8373)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]