Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cái chết có bí hiểm không?

19/01/201107:13(Xem: 7902)
Cái chết có bí hiểm không?

TỪ NỤ ĐẾN HOA

(FROM NOVICE TO MASTER
Thiền sư: Soko Morinaga - Biên dịch: Thuần Bạch Ngọc Bảo
Nhà Xuất Bản: Thanh Niên 2007

Phần ba: THIỀN SƯ 

Cái chết có bí hiểm không? 

Tuy tôn giáo là về những điều không liên hệ gì đến sự chết, nhưng ở đây, để rộng đường thảo luận, chúng ta hãy lui mười bước và coi như là không phải vậy, thật ra là sự chết có một ảnh hưởng chủ yếu trên tôn giáo. Có cách nào để chúng ta nghĩ đến sự sống mà không nghĩ đến sự chết không? Xã hội của chúng ta có khuynh hướng rất thiên về tuổi trẻ, và khi chúng ta già đi, chúng ta thường hay nhìn cuộc đời như đang trên đà xuống dốc từ một ngọn đồi cao, như một sự phế thải cô đơn của một đời người. 

Nhưng vấn đề không chỉ là như vậy. Có thể nào chúng ta thực sự sống trọn vẹn được mà không biết nhìn kỹ vào sự chết không? Tôi không tin điều đó có thể được. Nếu không nhìn thẳng vào sự chết, như là mặt trái của sự sống, chúng ta không thể nào sống trọn vẹn và đầy đủ được. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy. 

Nhìn sự chết như là cách biệt và xa vời với sự sống, chúng ta không hay ưa thích cái chết. Khi nghĩ rằng họ sẽ mất hết tất cả những gì họ đã tích lũy được, những người đã nỗ lực thật nhiều trong cuộc đời sẽ đặc biệt thù ghét cái chết và họ còn không muốn nhắc đến vấn đề đó nữa. Ngoài ra, nếu có ai nghĩ về sự chết thì cũng đều có một ý nghĩ như nhau là cái chết là một điều ï không thể hiểu được. Lý luận của họ là không thể biết đến cái chết được vì người ta không thể kinh nghiệm nó trong khi còn sống, và không có ai chết rồi mà lại trở về để có thể kể cho chúng ta nghe được. Tuy rằng có những người đã trở về sau khi trải qua cái chết giả, nhưng không một ai chết thật đã trở về sau đó vài năm để mà kể cho chúng ta nghe về thế giới bên kia. Một vài người nói rằng, nghĩ về sự chết là chỉ có phí thời giờ. 

Chấp trước trong thái độ đó, chúng ta sẵn sàng đơn giản hóa ý nghĩa của câu nói Khổng Tử là: “Chúng ta chưa biết gì về sự sống, làm sao chúng ta biết về sự chết được?” Chúng ta cho rằng có thể tập trung sống một cuộc sống trọn vẹn mà không cần phải nhìn kỹ đến cái chết. Do đó chúng ta thường hạ thấp tầm quan trọng của sự chết để mà không cần nghĩ đến nó. 

Nhưng thực sự chết có phải là điều gì chúng ta không thể biết đến không? 

Có một điều chúng ta chắc chắn sẽ gập phải trong đời sống hàng ngày của chúng ta, đó chính là sự chết. Người ta chết khắp nơi nơi. Hơn thế nữa, còn có những cái chết của các gia súc như chó, mèo, chim chóc nuôi trong nhà. Còn cây cối bạn mua ở vườn cây đem về trong chậu nữa, chúng cũng khô héo và chết đó thôi? Còn những đóa hoa tươi nghệ thuật được mua ở tiệm về, chúng cũng tàn tạ dần trong những kiểu trưng bầy của chúng đó thôi? Rồi cái tách đặc biệt mà bạn dùng đến hàng ngày và giữ gìn cẩn thận đó, một ngày nào nó vuột khỏi tay bạn và rơi xuống đất vỡ tan tành. Cái “chết” luôn luôn ở đó, với ý nghĩa của sự biệt ly. 

Nếu sự chết chiếm một phần đáng kể như vậy trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, làm sao chúng ta không biết đến nó được? Tại sao chúng ta cứ nhất quyết cho rằng không thể nào biết đến sự chết được khi cái chết vẫn hiện hữu thường nhật nơi cuộc đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể bác bỏ vấn đề này một cách lơ là như vậy được? 

Cái nguyên nhân gốc của sự bác bỏ sự chết của chúng ta là, theo từ ngữ Phật pháp, cái quan điểm đối đãi của năng và sở -- của cái ta và cái ngoài ta -- ”Ðó là người ta, còn đây là tôi.” Chúng ta thường hay lãnh đạm với những gì thấy có vẻ như không trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống của mình trong hiện tại … “Ðiều ấy thì liên quan gì đến tôi?” 

Tuy rằng sự chết tràn lan ở chung quanh chúng ta, chúng ta thường xem đó như là cái chết của một cái gì hay một người nào khác chúng ta. Nhưng làm sao để biện minh cho điều đó được? 

Sự phân biệt rõ ràng giữa chúng ta và người khác có nói lên được thực chất trong tình trạng của chúng ta không? Giữa những người chúng ta, có phải là không có gì trung gian nối kết chúng ta với nhau không? 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2025(Xem: 220)
Kính bạch Thầy , có nhìn lại tình thương của Thầy đối với Cụ Bà Tâm Thái mới thấy rất khó giữ được mối quan hệ của cha mẹ và con cái được kết nối chặt chẽ như thế này, mà trái lại ngày nay mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thật lỏng lẻo. Sự thật là thế, con kính cảm tác bài thơ này. Kính ngưỡng mộ tâm đạo Hiếu của Thầy, và hy vọng con cháu của con được 50% của Thầy,
10/02/2025(Xem: 53)
Hơn một thập niên sống và học đạo ở Na Lan Đà (Ấn Độ), pháp sư Nghĩa Tịnh đã ghi chép nhiều nhận xét về luật lệ cho tăng đoàn Phật giáo vào TK 7. Đây cũng là một mục đích chính của ngài sau 25 ở nước ngoài và hơn một thập niên du học ở Na Lan Đa (Ấn Độ). Phần này chú trọng vào điều 33 với tựa đề là “Tôn kính quai thức” 尊敬乖式 (tạm dịch/NCT các tục lệ/tôn kính ngược ngạo). Tuy điều 33 chỉ có 161 chữ, nhưng gồm nhiều khái niệm Phật giáo và dữ kiện rất đáng chú ý. Các ghi chép trong đó cho thấy hai bức tranh toàn cảnh của người thường (phàm/tục) phải trải qua giai đoạn xuất gia, sống một đời khất sĩ theo gương hạnh đầu đà để cuối cùng tìm đến niết bàn (vô sinh). Tương phản với người phàm sống trong tham vọng và xa xỉ, giả dối để mưu sinh. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phạn ngữ không nhỏ trong văn hoá Trung Hoa, phản ánh qua các cách dịch nghĩa và kí âm còn tồn tại đến ngày nay; một số đã trở thành vốn từ căn bản của các ngôn ngữ bản địa mà ít người biết là có gốc 'ngoại lai'. Một số Hán và Phạ
10/02/2025(Xem: 523)
Khi tiếng pháo đón chào năm mới 2025 chấm dứt, khi người Hòa Lan trở về với cuộc sống bình thường mỗi ngày thì đó lại là lúc người Việt Nam nơi đây chuẩn bị đón chào năm mới. Chúng ta đón Tết Nguyên Ɖán trong không khí gia đình, chúng ta không hưởng được không khí Tết ngoài đường phố, trong các cửa hàng như ở quê nhà.
10/02/2025(Xem: 357)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản. Lời dạy đó là từ một bài thơ của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) khi ngài dạy ý chỉ Thiền tông cho vua Trần Nhân Tông. Lời dạy đó cũng là đúc kết từ nhiều Kinh khác nhau do Đức Phật truyền dạy.
10/02/2025(Xem: 691)
Trong tạng kinh Nikàya (Pali), cụ thể là Kinh Tương Ưng Bộ Samyutta Nikàya, Tương Ưng Nhân Duyên, những gì Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chứng ngộ, thấy biết như thật tương ưng với những gì chư Phật quá khứ đã chứng ngộ và thấy biết như vậy. Thế Tôn gọi đó là TÙY TRÍ (Tùy trí chư Phật quá khứ: thấy biết giống như chư Phật quá khứ đã thấy, đã chứng ngộ). Đấng Thiện Thệ cho rằng những ai Tùy Trí như vậy sẽ có Pháp Trí (tức là Pháp Trí như vậy do Tùy Trí Chư Như Lai mà có, nên tràn đầy ánh quang minh hay Pháp Quang).
06/02/2025(Xem: 396)
XUÂN VÀ CON ĐƯỜNG CỦA BỒ TÁT ĐI Pháp thoại Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng cho Phật tử ngày mùng 2 tết Giáp Thìn, tại Tịnh Nhân Thiền đường, Tự viện Phước Duyên - Huế Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật.
05/02/2025(Xem: 357)
Trời xuân ấm vạn nẻo đường Đất xuân ấm giữa vô thường thế gian; Non xuân đứng giữa núi ngàn, Nước xuân chảy giữa muôn vàn điệu ru;
05/02/2025(Xem: 245)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tế và ước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn, hoặc ngược lại thì thực tế đôi khi cũng có thể khơi động và làm sống lại các ước mơ của mình trong quá khứ. Câu chuyện mà tôi sắp thuật lại dưới đây nêu lên các ước mơ của một người mẹ hiện lên với mình như một sự thực, và các ước mơ của một người con mãi mãi vẫn là ước mơ.
05/02/2025(Xem: 273)
NẾN VU LAN THẮP SÁNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG Trong truyền thống Phật giáo, lễ Vu lan là ngọn nến hiếu hạnh thắp sáng giữa đời thường để cho ai có mắt thì được thấy, có trí thì được sáng tỏ, có tâm thì cảm và có tình, thì tình thêm sáng đẹp, rộng và sâu.
05/02/2025(Xem: 658)
CÁC PHÂN KHOA PHẬT GIÁO Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com