Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương XIV: Cõi Phật

08/12/201017:00(Xem: 8696)
Chương XIV: Cõi Phật

 

TẤM LÒNG RỘNG MỞ
LUYỆN TẬP LÒNG TỪ BI TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY

Tác giả Dalai Lama - Lê Tuyên biên dịch - Lê Gia hiệu đính
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: An Open Heart Practicing Compassion in EverydayLife

CHƯƠNG XIV
CÕI PHẬT
(BUDDHAHOOD)

Để tìm được sự che chở ở"ba nơi nương tựa", với khát vọng mạnh mẽ đạt tới sự giác ngộ caonhất nhằm giáp ích cho mọi sinh linh, chúng ta phải thông hiểu tường tận bảnchất của sự giác ngộ. Đương nhiên, chúng ta phải hiểu rõ bản chất của thế giantrần tục là đầy rẫy những khổ đau. Chúng ta biết được sự phù phiếm vô nghĩa củanhững đam mê trong cuộc sống luân hồi, mà chúng ta thì rất dễ bị cám dỗ bởinhững đam mê đó. Chúng ta quan tâm đến những đau khổ mà mọi người đang liên tụcgánh chịu và chúng ta khao khát giúp mọi người vượt qua được đau khổ đó. Khiviệc luyện tập của chúng ta được thúc đẩy bởi những khao khát như vậy, chúng tacố gắng hết sức đạt tới sự giác ngợ hoàn toàn của Cõi Phật, chúng ta là nhữngngười luyện tập Mahayana.

Thuật ngữ"Mahayana" thường gắn liền với những hình thức Phật giáo ở Tây Tạng,Trung Hoa và Nhật Bản. Thuật ngữ này đôi khi cũng được áp dụng cho những trườngTriết học Phật giáo.

Tuy nhiên, ở đây tôi sửdụng thuật ngữ "Mahayana" để chỉ về những khao khát trong lòng củamột cá nhân luyện tập. Động cơ thúc đẩy mà chúng ta có là mong muốn đem niềmhạnh phúc đến với mọi sinh linh và nổ lực lớn nhất mà chúng ta thực hiện lànhằm giúp cho tất cả mọi người đều đạt được niềm hạnh phúc đó. Những ngườiluyện tập Mahayana cống hiến hết mình nhằm đạt tới Cõi Phật. Họ cố gắng thủtiêu những suy nghĩ ích kỷ và sự ngu dốt gây cản trở họ đạt tới trạng thái giácngộ hoàn toàn và thông suốt. Những người luyện tập hiến mình cho việc đào luyệnnhững phẩm chất đạo đức như lòng khoan dung quảng đại, nhân nghĩa và lòng kiênnhẫn tới một mức độ mà họ có thể sẽ cho đi bản thân mình bằng mọi cách cầnthiết và bất chấp mọi khó khăn cũng như những điều bất công nhằm phục vụ mọingười. Quan trọng nhất là họ phát triển sự thông suốt của mình: ý thức của họvề "sự trống rỗng". Họ cố gắng đạt được sự nhận thức về "sựtrống rỗng" của sự tồn tại cố hữu ngày một sâu sắc hơn và nâng cao tínhtinh tế của tâm hồn nhằm đạt được mục đích. Dĩ nhiên là rất khó có thể mô tảđược rõ ràng quá trình đạt tới Cõi Phật. Có thể nói rằng khi ý thức của conngười về "sự trống rỗng" của sự tồn tại cố hữu trở nên sâu sắc hơn,thì mọi vết tích của lòng ích kỷ sẽ bị xóa sạch và người ta đạt tới một trạngthái giác ngộ hoàn toàn - Cõi Phật. Tuy nhiên, cho tới lúc chúng ta bắt đầu cóđược những ý thức như vậy, sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ là lý thuyết.

Khi những tàn tích cuốicùng của những quan niệm sai lầm ngu dốt và những khuyng hướng sai trái được gỡbỏ khỏi tâm hồn của người luyện tập, tâm hồn trong sạch tinh khiết còn lại đólà một tâm hồn của Đức Phật. Người luyện tập đã đạt được sự giác ngộ hoàn toàncòn mang nhiều đặc tính khác nữa, theo ngôn ngữ Phật giáo, những đặc tính đó là"những thể xác". Một số thể xác này ở hình thức vật chất, một số kháclại không ở hình thức vật chất. Những thể xác không ở hình thức vật chất baogồm cả một thân thể thật sự. Đây chính là một tâm hồn tinh khiết như chúng tađã biết. Đặc tính thông suốt của một tâm hồn giác ngộ, khả năng liên tục nhậnthức mọi sự vật hiện tượng của tâm hồn, và cả ý thức của tâm hồn về "sựtrống rỗng" của sự tồn tại cố hữu đều được biết đến như là một thề xácthông suốt của Đức Phật. Và đặc tính trống rỗng của tâm hồn thông suốt này gọilà thể xác bản chất của Đức Phật. Cả 2 loại thề xác trên đều không ở hình thứcvật chất. Những thể xác đặc biệt này đạt được qua khía cạnh "bao la"của cuộc hành trình tâm hồn.

Vậy thì có 2 biểu hiệnthể xác khác nhau của sự giác ngộ. Ở đây, chúng ta bước vào một lĩnh vực mà hầuhết chúng ta điều khó có thể nắm bắt. Những biểu hiện này được gọi là nhữnghình thức thể xác của Đức Phật. Thể xác đạt được của Đức Phật là một biểu hiệncủa hình thức vật chất, nhưng hầu hết chúng ta đều không nhìn thấy được. Chỉ cónhững ai nhận thức được ở một mức độ rất cao mới có thể nhìn thấy được, đó lànhững vị Bồ Tát thấu hiểu những tận cùng của chân lý được thúc đẩy bởi khaokhát mãnh liệt đạt tới Cõi Phật vì lợi ích của mọi người.

Không giống như thể xáccó được của Đức Phật, những biểu hiện của việc đạt tới giác ngộ hoàn toàn cóthể được trông thấy bởi hầu hết mọi người. Đó là những cơ thể phát xạ(emanation). Nói cách khác, những biểu hiện này là hiện thân của những ngườigiác ngộ hoàn toàn. Tình trạng phát xạ xuất hiện vào lúc một người luyện tậpđạt tới sự giác ngộ hoàn toàn, đó lá kết quả của lòng từ bi khao khát giúp đỡmọi người. Qua cơ thể phát xạ đó, Đức Phật dạy bảo mọi người về phương pháp màchính Đức Phật đã ứng dụng tâp luyện và đạt được trạng thái thoát ra khỏi đaukhổ.

Một Đức Phật giúp đỡchúng ta qua thân th? phát xạ của mình như thế nào? Một Đức Phật thực hiệnnhững hành vi giác ngộ của mình chủ yếu qua những lời truyền dạy, Đức PhậtShakyamuni, vị Phật trong lịch sử, người đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc câyBồ Đề cách đây 2500 năm, là một thân thể phát xạ.

Lời giải thích như vậyvề những khía cạnh khác nhau của trạng thái giác ngộ hoàn toàn nghe có vẻ hơigiống một chuyện khoa học viễn tưỡng, đặc biệt khi chúng ta khảo sát khả năngxảy ra của vô số sự phát xạ của vô số Đức Phật hiện thân ở vô số vũ trụ để giúpđỡ vô số người. Tuy nhiên, trừ khi sự hiểu biết của chúng ta về Cõi Phật đủ sâusắc đề nắm bắt những khía cạnh bao la của sự giác ngộ, của sự che chở mà chúngta có nơi Đức Phật sẽ không thể gây ra được những hiệu lực cần thiết. Việc rènluyện Mahayana, chúng ta hiến mình luyện tập nhằm tìm kiếm niềm hạnh phúc vìmọi ngưới, là một sự thông hiểu rộng lớn. Nếu hiểu biết của chúng ta về ĐứcPhật chỉ giới hạn ở những câu chuyện lịch sử về Đức Phật Shakyamuni, chúng tasẽ tìm kiếm sự che chở nơi những người đã chết rất lâu và những người đó khôngcòn khả năng giúp đỡ chúng ta được nữa. Để cho sự nương tựa của chúng ta nơiĐức Phật thật sự sinh động mạnh mẽ, chúng ta phải nhận thức được những khíacạnh khác nhau của Cõi Phật.

Vậy thì chúng ta giảithích như thế nào về sự tồn tại đời đời của Đức Phật? Chúng ta hãy xem xét tâmhồn của chính chúng ta, nó giống như một dòng sông - một dòng sông chảy liêntục của sự hiểu biết giới hạn, mỗi dòng sông chảy đến một hướng khác nhau củahiểu biết. Dòng sông của ý thức như vậy trôi chảy giờ này qua giờ khác, ngàynày qua ngày khác, năm này qua năm khác và thậm chí theo quan điểm Phật giáo,từ kiếp này qua kiếp khác. Mặc dù thể xác của chúng ta không còn theo chúng tađược nữa một khi sức lực của chúng ta cạn kiệt, nhưng những dòng chảy của ýthức vẫn tiếp tục băng qua cái chết và cuối cùng xuất hiện ở kiếp sau, bất kểlà nó sẽ xuất hiện ở hình thức nào. Mỗi người trong chúng ta đều sở hữu một dòngsông về ý thức như vậy. Và dòng sông đó không có điểm khởi đầu, cũng chẳng cóđiểm kết thúc. Chẳng có gì có thể ngăn nó lại được. Nó không giống những cảmxúc tức giận và lưu luyến dễ dàng bị chặn đứng khi áp dụng những biện pháp đốikháng thích hợp. Hơn nữa, tính chất chủ yếu của tâm hồn là trong sạch, tinhkhiết; những ô uế trong tâm hồn có thể được tẩy sạch, làm cho sự liên tục củatâm hồn tinh khiết này trở thành bất diệt. Một tâm hồn hoàn toàn không một chúto â uế là một thân thể thật sự của Đức Phật.

Nếu chúng ta suy ngẫm vềtrạng thái giác ngộ hoàn toàn theo cách này, sự cảm kích của chúng ta dành chosự vĩ đại của Đức Phật sẽ tăng lên, lòng tin của chúng ta nơi Đức Phật cũng tănglên, Khi chúng ta ý thức được những phẩm chất của Đức Phật, khát vọng đạt tớitrạng thái này của chúng ta trở nên mãnh liệt hơn. Chúng ta sẽ hiểu rõ được giátrị và sự cần thiết của khả năng xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, ởnhiều nơi khác nhau để giúp đỡ mọi sinh linh. Điều này cho chúng ta một sứcmạnh và quyết tâm cao độ đạt tới một tâm hồn hoàn toàn giác ngộ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 8152)
Trong giới hạn lịch sử ngắn ngủi của loài người trên trái đất, theo nhà khảo cổ Pete Rainier, tính từ thời thượng cổ đến nay, có hơn 1000 tôn giáo đã xuất hiện. Trong đó, có chừng một trăm tôn giáo còn đứng vững cả trăm năm và một chục tôn giáo đứng vững cả ngàn năm.
08/04/2013(Xem: 6646)
Chủ yếu Ðạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ; trước phải giác ngộ nhiên hậu mới ...
08/04/2013(Xem: 10501)
"Hỏi hay đáp đúng" (nguyên tác Anh ngữ: '' Good Question, Good Answer) là một trong nhiều tác phẩm phổ biến của Đại đức Shravasti Dhammika, một Tăng sĩ người Úc đã từng diễn giảng giáo lý Phật Đà trên đài truyền hình và đại học Úc
08/04/2013(Xem: 4457)
Khai Thị [ Tập 1 ] Đại Sư Tuyên Hóa Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành --- o0o --- --- o0o --- | Thư Mục Tác Giả | --- o0o --- Vi tính : Diệu Nga - Samuel Trình bày : Mỹ Hạnh - Nhị Tường
08/04/2013(Xem: 6991)
Có một tiểu hòa thượng mới đến thiền viện, anh ta chủ động đi gặp thiền sư Trí Nhàn, nói thành khẩn: - Con mới đến, xin sư phụ chỉ bảo con phải làm những gì. Thiến sư Trí Nhàn mỉm cười nói: - Trước hết, con hãy đi làm quen với chúng tăng trong chùa. Ngày hôm sau, tiểu hòa thượng lại đến gặp thiền sư, hỏi: - Chúng tăng con đã làm quen hết rồi, giờ phải làm gì?
08/04/2013(Xem: 6172)
Là một con người chúng ta phải có một mục đích cho cuộc sống. Kẻ không theo đúng con đường chính đáng của đời sống sẽ không bao giờ tìm thấy mục đích...
08/04/2013(Xem: 7264)
Nội dung cơ bản của Phật giáo, ở đâu cũng là một, mãi mãi vẫn là một. Phật giáo bắt nguồn từ đức Phật là bậc đại giác, tức là từ biển lớn trí tuệ và từ bi của đức Thích Ca ...
08/04/2013(Xem: 8888)
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường nghe hay thường quen miệng nói đến hai chữ "tu dưỡng’ chẳng hạn như:"Con nên tu dưỡng tánh tình để thành người có đức hạnh" hay:"Nó hư, vì khôn gbiết tu tâm, dưỡng tánh". Hai tiếng"tu dưỡng" thường đi đôi với nhau, nên chúng ta thấy mường tượng như chúng nó giống nghĩa nhau, có một phạm vi, một tác dụng riêng biệt. Tu là sửa, mà dưỡng là nuôi. Người ta sửa cái xấu, mà nuôi cái tốt_Sữa là trừ, mà nuôi là cộng; tu có tánh cách tiêu cực, dưỡng tánh có tánh cách tích cực. Một bên tiêu trừ cái xấu, một bên bồi bổ cái tốt. Một bên làm cho hết hư, một bên làm cho thêm nên. Mọi sự vật trong đời tương đối nầy đều có phần xấu và phần tốt. Đối với cái xấu ta phải tu, đối với cái tốt ta phải dưỡng. Chẳng hạn, khi ta trồng một cây gì, công việc của chúng ta có hai phần lớn: bắt sâu bọ, trừ nước phèn, nước mặn: đó là tu hay sửa. Bỏ phân, tưới nước ngọt, cho nó đủ thoáng khí và ánh nắng mặt trời: đó là bổ hay dưỡng. Tu bổ một cái cây, cho nó đơm hoa kết trái,
08/04/2013(Xem: 8372)
Tôi rất vui mừng, vì thấy mỗi ngày chủ nhật, quý vị bơ thì giờ quý báu, để đến chùa lạy Phật nghe kinh, Một giờ quý vị lạy Phật nghe kinh, thì ngày ấy hay tháng ấy quý vị tránh được việc dữ, làm được điều lành. Một người tránh dữ làm lành, thì người ấy trở nên hiền từ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì gia đình được hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ làm lành thì toàn dân có đạo đức, trở nên một nước thạnh trị. Cả nhơn loại đều tránh dữ làm lành, thì lo chi thế giới chẳng được đại đồng, nhơn loại không hưởng được hạnh phúc thái bình.
06/04/2013(Xem: 7713)
Phật Giáo đưa ra nhiều quan điểm khá khác biệt nhau về cái chết. Nếu đã có nhiều quanđiểm khác nhau thì tất nhiên cũng sẽ phải có nhiều phép tu tập khác nhau. Thếnhưng cái chết cũng chỉ là một hiện tượng duy nhất, vậy chúng ta hãy thử tìmhiểu xem tại sao Phật Giáo lại có nhiều quan điểm và nhiều phép tu tập như thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567