Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Thiền sư Liễu Quán, Chùa Thiền Tôn - Huế

17/11/201017:25(Xem: 10039)
15. Thiền sư Liễu Quán, Chùa Thiền Tôn - Huế


THIỀNSƯ LIỄU QUÁN,

CHÙATHIỀN TÔN - HUẾ
Nuớc ta từ saungày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủđất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trịriêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sôngDanh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi làÐàng Trong và Ðàng Ngoài.

Tuy nhiên, chế độ cầm quyền dùcó khác nhau mà lòng dân vẫn là một. Dân Ðàng Trong hay dânÐàng ngoài vẫn coi nước Việt Nam là một, phong tục tậpquán, văn hóa, tín ngưỡng vẫn giống nhau. Dân Ðàng Ngoàitin Phật giáo, dân Ðàng Trong cũng tin Phật giáo, mặc dù Phậtgiáo lúc này đã suy vi rất nhiều so với Phật giáo thờiLý Trần. Song do có lòng tin đó, mà Ðàng Trong hay Ðàng Ngoàivẫn có các vị Thiền sư kể cả các vị Thiền sư Trung Quốcqua tiếp tục truyền bá đạo Thiền thuộc phái Lâm Tế vàTào Ðộng.

Gặp lúc ở Tàu nhà Mãn Thanh lênthay nhà Minh, những Tăng sĩ Tàu không thần phục nhà Thanhmới bỏ sang Việt Nam. Người vào đất Bắc như Chuyết CôngHòa thượng, Minh Lương Hòa thượng, người vào đất Nam nhưTế Viên Hòa thượng, Giác Phong Lão tổ, Thọ Tôn Nguyên Thiều,Minh Hoằng Tử Dung, Thạch Liêm Ðại Sán v.v... sang ở vùngThuận Hóa và Bình Ðịnh. Trong khoảng thời gian này, ở ÐàngTrong có một vị Thiền sư Việt Nam, đạo đức cao siêu, tâmquang sáng rực, được tôn làm Tổ, đó là Hòa thượng LiễuQuán mà cuộc đời của Ngài thật là một tấm gương tốtchói lọi của một trong những vị Sư thông thái nhất xứnày.

Tổ Liễu Quán mở pháp môn ở núiThiên Thai thuộc Thuận Hóa. Ngài đặt bài kệ: "Thật TếÐại Ðạo, Tánh Hải Thanh Trừng v.v..." để làm pháp hệtruyền thừa mãi đến này vẫn còn tiếp nối. Hầu hết cácchùa ở vùng Trung và Nam Việt đều thuộc phái Thiền LâmTế này, trong khi việc truyền bá của các vị Thiền sư TrungQuốc không mấy rộng rãi và liên tục cho bằng. Tổ LiễuQuán thật đã có một vị trí sáng chói trong lịch sử Phậtgiáo cuối đời Hậu Lê. Vậy ở đây ta hãy tìm hiểu rõhơn về ngài.

Ở khoảng ba cây số về phía Namđàn Nam giao có một ngôi tháp đến nay còn được giữ gìnhoàn hảo đẹp đẽ ở trên một thửa đất có tường thànhbao quanh, có tam cấp và hồ sen. Ðó là ngôi tháp của TổLiễu Quán. Có thể nói đây là ngôi tháp hùng vĩ, cổ kính,uy nghiêm nhất từ xưa còn lại ở miền Trung và Nam Việt.

Khuôn viên thấp gồm có kiến trúcPháp tường thành, nền hồ vôi, rộng vào khoảng 70 mét vuông,nếu kể toàn diện tích đất chung quanh thì có thể gần mộthéc-ta, trong đó có phần trồng thông và xoài.

Tháp có hai lớp tường thành bằngđá bao quanh. Lớp trong hình bát giác cao độ 0m60 ở gần tháp.Lớp ngoài hình tứ giác cao độ 1m80, dày 1m. trước tháp cótam cấp danh dự ngang 4 mét gồm 10 bậc. Ở ngoài nhìn trêncổng tường vào tháp có biển đề chữ: "Ðàm hoa lạc khứhữu du hương" (Hoa Ðàm rụng hương thơm vẫn còn). Hai bêncó hai câu đối: "Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiềnlưu lục thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanhsơn" (Tiếng linh báu ngân dài cùng dòng nước lục trướccửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất độngngắm núi xanh).

Phía trong tường thành là ngôi thápdựng ở chính giữa, hình bát giác hồ vôi, cao 7 tầng độ6 mét, mặt trước có bia đá áp sát vào và mang các dòng chữ:bên trên: "Vô lượng quang", dòng giữa bia: "Sắc tú Chánh giácViên ngộ Liễu Quán lão Hòa thượng chi tháp". Hai bên có haicâu đối: "Bỗng át chân phong gia kế thuật; Tân lương mỹhóa quốc bao sùng" (Chân phong của phép Thiền đánh hét đượcngài kế thừa truyền thuật; Ðức hòa tốt đẹp của bậcThầy hướng đạo được cả nước khen ngợi tôn sùng).

Áp sát mặt trong tường thành bêntrái của tháp có tấm bi đá sa thạch cao 1m, rộng 0m60, vănbia gồm gần 1.500 chữ Hán, do người cháu trong đạo củaTổ Liễu Quán, bấy giờ đang làm Sư ở chùa Tang Liên bênTrung Quốc soạn và dựng năm thứ 9 niên hiệu Cảnh Hưng (1748,vua Lê Hiển Tôn), đúng 6 năm sau ngày Tổ Liễu Quán viên tịch.

Chính nội dung tấm bia này là mộttài liệu đầy đủ nhất còn lại cho ta biết rõ công hạnhtu chứng và hóa đạo của Tổ Liễu Quán.

Dưới đây là bản dịch các điểmchính tấm bia ấy: "Ðặc điểm căn bản của Phật giáo chúngta là gì? - Theo Phật giáo, con người không phải từ cửatử sanh ra, cũng phải chết đi là đi vào cửa tử. Thế nênngười xưa sống trong rừng sâu hang động, chỉ ăn ngủ sơsài, chẳng có gì quan trọng đáng lo nghĩ hơn là vấn đềsống và chết.

Tìm được một người chấp nhậnhy sinh cho đạo pháp, nhất là lúc Phật giáo đang suy đồinhư Hòa thượng Liễu Quán của chúng ta thật là điều hyhữu.

Ngài Quán làng Bạc Mã, huyện Ðồngxuân phủ Phú Yên, họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu LiễuQuán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí tiếthơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyệncủa ngài, thân phụ ngài đã gởi ngài đến chùa Hội Tônthụ giáo với Tế Viên Hòa thượng. Bảy năm sau Tế ViênHòa thượng tịch, Ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùaBảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ.

Năm Tân tị (1691), sau khi xuốngtóc được một năm, ngài được gọi về làng cũ để giúpđỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo ngài phải đi háicủi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ thân quađời vào năm Ất hợi (1695) ngài lại trở ra Huế chính thứcthụ giới Sa-di với Thạch Liêm Ðại Sán Hòa thượng. NămÐinh sửu (1697) ngài tiếp tục thụ giới Cụ túc với TừLâm lão Hòa thượng.

Năm Kỹ mão (1699) ngài đi khắpTòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý, vàquyết định hiến thân cho đời sống đạo, chẳng quản đạmbạc gian lao. Từ đó ngài tinh chuyên tu tập.

Năm Nhâm ngọ (1702) ngài đến LongSơn đầu sư với Tử Dung Hòa thượng (người sáng lập ẤnTôn Từ Ðàm hiện nay), một vị Hòa thượng có tiếng thôngthái khéo dạy người niệm Phật tham Thiền của thời này.

Trước khi chấp nhận ngài làm họctrò, Hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngàigiải thích câu sau đây: "Muôn pháp quy về một, một về đâu?".Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thấtvọng.

Một hôm nhân đọc Truyền ÐăngLục, ngài gặp câu: "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hộixứ" (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc khônghiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã tìm ra câu giải đápmà thầy mình đã đặt ra, nhưng vì đường sá xa cách, khôngthể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.

Năm Mậu tý (1708) ngài đến LongSơn (Huế) để đệ trình kết quả với câu: "Chỉ vật truyềntâm, nhân bất hội xứ". Hòa thượng Tử Dung lại dạy câu:"Ðứng ở mé bờ cao vút buông tay, tự mình chịu lấy, chếtrồi sống lại, bấy giờ không ai có thể dối người" (Huyềnnhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô,khi quân bất đắc). Ngài vỗ tay cười lớn tiếng. Hòa thượngnói: "Không phải vậy đâu". Ngài liền đọc: "Xứng chùy nguyênthị thiết". (Cái dùi nguyên là sắt). Hòa thượng đáp: "Cũngkhông phải vậy đâu".

Hôm sau Hòa thượng lại tiếp tụcthử ngài bằng câu: "Công án ngày qua chưa giải đáp xong,hãy nói lại xem?". ngài liền đọc hai câu: Sớm biết đènlà lửa, cơm chín đã lâu rồi. Hòa thượng tán thán.

Năm Nhâm thìn (1712) khi Hòa thượngTử Dung vào Quảng Nam để làm lễ Toàn Viện (?) ngài LiễuQuán trình Hòa thượng bài kệ dục Phật (tắm Phật). Xembài kệ, Hòa thượng đặt cho ngài câu hỏi sau đây: "TổTổ truyền cho nhau, Phật Phật trao cho nhau, chưa rõ truyềntrao cái gì ấy?". Ngài Liễu Quán đáp: "Măng đá mọc chồidài một trượng, phủ phất lông rùa nặng ba cân". Hòa thượngTử Dung tiếp hỏi: "Thuyền trượt trên núi cao, ngựa chạydưới đáy biển" nghĩa là gì? Ngài đáp: "Trâu đất gãy sừngrống thâu đêm, đàn cầm không giây gảy suốt ngày".

Rồi ngài chép lại tất cả nhữngcâu đối đáp trình ngay lên Hòa thượng Tử Dung và đượcHòa thượng hoàn toàn thừa nhận.

Ngài là người có trí thông minhphi thường, chí nguyện siêu việt.

Năm Nhâm dần (1722) ngài về trụở Tổ đình Thiền Tôn - Huế. Trong các năm Quý sửu. Giápdần, Ất mão (1733, 1734, 1735) ngài mở bốn đại giới đàntheo lời thỉnh cầu của các hàng cư sĩ, xuất gia và cácquan viên hộ pháp. Năm Canh thân (1740) sau khi truyền giới đànLong Hoa, ngài trở lại tổ đình.

Ðương thời Hiếu Minh vương NguyễnPhúc Chu cảm phục đạo đức và danh tiếng của ngài, triệungài vào cung, nhưng ngài muốn giữ sự tự tại ở chốn lầmtuyền nên đã từ tạ lời thỉnh mà không đến.

Mùa xuân năm Nhâm tuất (1742) ngàilại mở giới đàn tại chùa Viên Thông. Vào cuối thu, tháng9 năm ấy (tháng 10 năm 1742) ngài lâm bịnh nhưng không có dấuhiệu gì trầm trọng. Tháng 10 năm ấy, ngài họp các đệtử nói: "Tôi sẽ ra đi, sứ mạng của tôi ở đời này đãxong". Các đệ tử khóc òa. Ngài khuyên bảo: "Tại sao cácvị khóc? Chư Phật còn nhập Niết-bàn. Tôi cũng vậy, tôiđến đi rõ ràng, về có nơi chốn. Xin đừng buồn rầu, hãycố gắng tinh tấn hơn lên".

Tháng 11 âm lịch năm ấy, mấy ngàytrước khi mất, ngài ngồi dậy tự tay viết bốn câu:

"Ngoài bảy mươi năm trongthế giới
Không không sắc sắc thấy dungthông

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ

Nào phải ân cần hỏi tổ tông".
Viết xong, ngài bảo các đệ tử:"Các vị xem này, tôi đến với cõi đời này giản dị biếtbao nhiêu. Tôi sẽ ra đi trọn vẹn. Mai sau các vị hãy áp dụngthực hành Thánh hạnh. Xin hãy cố gắng chớ quên lời dạybảo của tôi".

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất (tháng12 năm 1742) sau khi dùng trà, hành lễ buổi sáng, ngài hỏiđệ tử mấy giờ. Các đệ tử đáp bây giờ là giờ mùi(khoảng 1 đến 3 giờ chiều), ngài thở hơi cuối cùng.

Chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu banthụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng để khắcbia.

Di thể được chuyển mai táng ngày19 tháng 2 năm Quý hợi (1743) ở ngôi tháp mới nằm phía Namnúi Thiên Thai, trên the đất làng An Cựu, huyện Hương Trà,tỉnh Thừa Thiên (cũ).

Ngài Liễu Quán sinh giờ Thìn (khoảng7 đến 9 giờ sáng) ngày 13 tháng 11 năm Ðinh vị (1667), viêntịch ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Hưngthứ III (1742), 43 tuổi hạ, 76 tuổi đời, độ 49 đệ tửxuất gia danh tiếng và rất đông đệ tử tại gia.

Người thế tục cho rằng thế giancó sanh tử khứ lai, nhưng đối với Ngài Liễu Quán thì khôngnhư vậy. Thương kính Ngài, vị Thiền sư khả kính của chúngta không còn nữa, Ngài đã nhập Niết-bàn. Vậy không phảinói gì cho Ngài nữa, nhưng những công nghiệp phục vụ đạopháp của Ngài được ghi lại đây là để làm tỏ rạng đạogiáo cho tương lai chúng ta.

Xin thú nhận rằng, nhân duyên nhậpđạo, sự nghiệp truyền đăng của ngài quá đặc biệt lớnlao, tôi không sao rõ hết được, nên nơi đây chỉ thuậtlại được đôi phần, như kẻ mù rờ voi vậy.

Pháp hiệu Thiện Kế kính soạn.

(Sư Thiện Kế sau về Trung Quốcvà mất luôn bên ấy).

Hiện nay cách phía sau tháp độ800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tửtiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp đẽ khang trang,trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ8 (1747) là di vật quý nhất.

15.11.1986

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 13372)
Hề chi một phận đời riêng Buông hơi nằm xuống mà nghiêng đất trời Thiếu ta, đời cũng vậy thôi! Ta là hạt bụi giữa đời bao la..
01/07/2015(Xem: 24123)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 19796)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11383)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9151)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8148)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12109)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31047)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13016)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12273)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]