Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Thiền sư Liễu Quán, Chùa Thiền Tôn - Huế

17/11/201017:25(Xem: 10444)
15. Thiền sư Liễu Quán, Chùa Thiền Tôn - Huế


THIỀNSƯ LIỄU QUÁN,

CHÙATHIỀN TÔN - HUẾ
Nuớc ta từ saungày Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) vào trấn thủđất Thuận Quảng, dần dần biến thành một vùng cai trịriêng cắt đứt liên hệ với vua Lê ở miền Bắc, lấy sôngDanh làm ranh giới chia cắt Việt Nam thành hai mà sử gọi làÐàng Trong và Ðàng Ngoài.

Tuy nhiên, chế độ cầm quyền dùcó khác nhau mà lòng dân vẫn là một. Dân Ðàng Trong hay dânÐàng ngoài vẫn coi nước Việt Nam là một, phong tục tậpquán, văn hóa, tín ngưỡng vẫn giống nhau. Dân Ðàng Ngoàitin Phật giáo, dân Ðàng Trong cũng tin Phật giáo, mặc dù Phậtgiáo lúc này đã suy vi rất nhiều so với Phật giáo thờiLý Trần. Song do có lòng tin đó, mà Ðàng Trong hay Ðàng Ngoàivẫn có các vị Thiền sư kể cả các vị Thiền sư Trung Quốcqua tiếp tục truyền bá đạo Thiền thuộc phái Lâm Tế vàTào Ðộng.

Gặp lúc ở Tàu nhà Mãn Thanh lênthay nhà Minh, những Tăng sĩ Tàu không thần phục nhà Thanhmới bỏ sang Việt Nam. Người vào đất Bắc như Chuyết CôngHòa thượng, Minh Lương Hòa thượng, người vào đất Nam nhưTế Viên Hòa thượng, Giác Phong Lão tổ, Thọ Tôn Nguyên Thiều,Minh Hoằng Tử Dung, Thạch Liêm Ðại Sán v.v... sang ở vùngThuận Hóa và Bình Ðịnh. Trong khoảng thời gian này, ở ÐàngTrong có một vị Thiền sư Việt Nam, đạo đức cao siêu, tâmquang sáng rực, được tôn làm Tổ, đó là Hòa thượng LiễuQuán mà cuộc đời của Ngài thật là một tấm gương tốtchói lọi của một trong những vị Sư thông thái nhất xứnày.

Tổ Liễu Quán mở pháp môn ở núiThiên Thai thuộc Thuận Hóa. Ngài đặt bài kệ: "Thật TếÐại Ðạo, Tánh Hải Thanh Trừng v.v..." để làm pháp hệtruyền thừa mãi đến này vẫn còn tiếp nối. Hầu hết cácchùa ở vùng Trung và Nam Việt đều thuộc phái Thiền LâmTế này, trong khi việc truyền bá của các vị Thiền sư TrungQuốc không mấy rộng rãi và liên tục cho bằng. Tổ LiễuQuán thật đã có một vị trí sáng chói trong lịch sử Phậtgiáo cuối đời Hậu Lê. Vậy ở đây ta hãy tìm hiểu rõhơn về ngài.

Ở khoảng ba cây số về phía Namđàn Nam giao có một ngôi tháp đến nay còn được giữ gìnhoàn hảo đẹp đẽ ở trên một thửa đất có tường thànhbao quanh, có tam cấp và hồ sen. Ðó là ngôi tháp của TổLiễu Quán. Có thể nói đây là ngôi tháp hùng vĩ, cổ kính,uy nghiêm nhất từ xưa còn lại ở miền Trung và Nam Việt.

Khuôn viên thấp gồm có kiến trúcPháp tường thành, nền hồ vôi, rộng vào khoảng 70 mét vuông,nếu kể toàn diện tích đất chung quanh thì có thể gần mộthéc-ta, trong đó có phần trồng thông và xoài.

Tháp có hai lớp tường thành bằngđá bao quanh. Lớp trong hình bát giác cao độ 0m60 ở gần tháp.Lớp ngoài hình tứ giác cao độ 1m80, dày 1m. trước tháp cótam cấp danh dự ngang 4 mét gồm 10 bậc. Ở ngoài nhìn trêncổng tường vào tháp có biển đề chữ: "Ðàm hoa lạc khứhữu du hương" (Hoa Ðàm rụng hương thơm vẫn còn). Hai bêncó hai câu đối: "Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiềnlưu lục thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanhsơn" (Tiếng linh báu ngân dài cùng dòng nước lục trướccửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên bất độngngắm núi xanh).

Phía trong tường thành là ngôi thápdựng ở chính giữa, hình bát giác hồ vôi, cao 7 tầng độ6 mét, mặt trước có bia đá áp sát vào và mang các dòng chữ:bên trên: "Vô lượng quang", dòng giữa bia: "Sắc tú Chánh giácViên ngộ Liễu Quán lão Hòa thượng chi tháp". Hai bên có haicâu đối: "Bỗng át chân phong gia kế thuật; Tân lương mỹhóa quốc bao sùng" (Chân phong của phép Thiền đánh hét đượcngài kế thừa truyền thuật; Ðức hòa tốt đẹp của bậcThầy hướng đạo được cả nước khen ngợi tôn sùng).

Áp sát mặt trong tường thành bêntrái của tháp có tấm bi đá sa thạch cao 1m, rộng 0m60, vănbia gồm gần 1.500 chữ Hán, do người cháu trong đạo củaTổ Liễu Quán, bấy giờ đang làm Sư ở chùa Tang Liên bênTrung Quốc soạn và dựng năm thứ 9 niên hiệu Cảnh Hưng (1748,vua Lê Hiển Tôn), đúng 6 năm sau ngày Tổ Liễu Quán viên tịch.

Chính nội dung tấm bia này là mộttài liệu đầy đủ nhất còn lại cho ta biết rõ công hạnhtu chứng và hóa đạo của Tổ Liễu Quán.

Dưới đây là bản dịch các điểmchính tấm bia ấy: "Ðặc điểm căn bản của Phật giáo chúngta là gì? - Theo Phật giáo, con người không phải từ cửatử sanh ra, cũng phải chết đi là đi vào cửa tử. Thế nênngười xưa sống trong rừng sâu hang động, chỉ ăn ngủ sơsài, chẳng có gì quan trọng đáng lo nghĩ hơn là vấn đềsống và chết.

Tìm được một người chấp nhậnhy sinh cho đạo pháp, nhất là lúc Phật giáo đang suy đồinhư Hòa thượng Liễu Quán của chúng ta thật là điều hyhữu.

Ngài Quán làng Bạc Mã, huyện Ðồngxuân phủ Phú Yên, họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu LiễuQuán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí tiếthơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyệncủa ngài, thân phụ ngài đã gởi ngài đến chùa Hội Tônthụ giáo với Tế Viên Hòa thượng. Bảy năm sau Tế ViênHòa thượng tịch, Ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùaBảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ.

Năm Tân tị (1691), sau khi xuốngtóc được một năm, ngài được gọi về làng cũ để giúpđỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo ngài phải đi háicủi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ thân quađời vào năm Ất hợi (1695) ngài lại trở ra Huế chính thứcthụ giới Sa-di với Thạch Liêm Ðại Sán Hòa thượng. NămÐinh sửu (1697) ngài tiếp tục thụ giới Cụ túc với TừLâm lão Hòa thượng.

Năm Kỹ mão (1699) ngài đi khắpTòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý, vàquyết định hiến thân cho đời sống đạo, chẳng quản đạmbạc gian lao. Từ đó ngài tinh chuyên tu tập.

Năm Nhâm ngọ (1702) ngài đến LongSơn đầu sư với Tử Dung Hòa thượng (người sáng lập ẤnTôn Từ Ðàm hiện nay), một vị Hòa thượng có tiếng thôngthái khéo dạy người niệm Phật tham Thiền của thời này.

Trước khi chấp nhận ngài làm họctrò, Hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngàigiải thích câu sau đây: "Muôn pháp quy về một, một về đâu?".Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thấtvọng.

Một hôm nhân đọc Truyền ÐăngLục, ngài gặp câu: "Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hộixứ" (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc khônghiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã tìm ra câu giải đápmà thầy mình đã đặt ra, nhưng vì đường sá xa cách, khôngthể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.

Năm Mậu tý (1708) ngài đến LongSơn (Huế) để đệ trình kết quả với câu: "Chỉ vật truyềntâm, nhân bất hội xứ". Hòa thượng Tử Dung lại dạy câu:"Ðứng ở mé bờ cao vút buông tay, tự mình chịu lấy, chếtrồi sống lại, bấy giờ không ai có thể dối người" (Huyềnnhai tán thủ, tự khẳng thừa đương, tuyệt hậu tái tô,khi quân bất đắc). Ngài vỗ tay cười lớn tiếng. Hòa thượngnói: "Không phải vậy đâu". Ngài liền đọc: "Xứng chùy nguyênthị thiết". (Cái dùi nguyên là sắt). Hòa thượng đáp: "Cũngkhông phải vậy đâu".

Hôm sau Hòa thượng lại tiếp tụcthử ngài bằng câu: "Công án ngày qua chưa giải đáp xong,hãy nói lại xem?". ngài liền đọc hai câu: Sớm biết đènlà lửa, cơm chín đã lâu rồi. Hòa thượng tán thán.

Năm Nhâm thìn (1712) khi Hòa thượngTử Dung vào Quảng Nam để làm lễ Toàn Viện (?) ngài LiễuQuán trình Hòa thượng bài kệ dục Phật (tắm Phật). Xembài kệ, Hòa thượng đặt cho ngài câu hỏi sau đây: "TổTổ truyền cho nhau, Phật Phật trao cho nhau, chưa rõ truyềntrao cái gì ấy?". Ngài Liễu Quán đáp: "Măng đá mọc chồidài một trượng, phủ phất lông rùa nặng ba cân". Hòa thượngTử Dung tiếp hỏi: "Thuyền trượt trên núi cao, ngựa chạydưới đáy biển" nghĩa là gì? Ngài đáp: "Trâu đất gãy sừngrống thâu đêm, đàn cầm không giây gảy suốt ngày".

Rồi ngài chép lại tất cả nhữngcâu đối đáp trình ngay lên Hòa thượng Tử Dung và đượcHòa thượng hoàn toàn thừa nhận.

Ngài là người có trí thông minhphi thường, chí nguyện siêu việt.

Năm Nhâm dần (1722) ngài về trụở Tổ đình Thiền Tôn - Huế. Trong các năm Quý sửu. Giápdần, Ất mão (1733, 1734, 1735) ngài mở bốn đại giới đàntheo lời thỉnh cầu của các hàng cư sĩ, xuất gia và cácquan viên hộ pháp. Năm Canh thân (1740) sau khi truyền giới đànLong Hoa, ngài trở lại tổ đình.

Ðương thời Hiếu Minh vương NguyễnPhúc Chu cảm phục đạo đức và danh tiếng của ngài, triệungài vào cung, nhưng ngài muốn giữ sự tự tại ở chốn lầmtuyền nên đã từ tạ lời thỉnh mà không đến.

Mùa xuân năm Nhâm tuất (1742) ngàilại mở giới đàn tại chùa Viên Thông. Vào cuối thu, tháng9 năm ấy (tháng 10 năm 1742) ngài lâm bịnh nhưng không có dấuhiệu gì trầm trọng. Tháng 10 năm ấy, ngài họp các đệtử nói: "Tôi sẽ ra đi, sứ mạng của tôi ở đời này đãxong". Các đệ tử khóc òa. Ngài khuyên bảo: "Tại sao cácvị khóc? Chư Phật còn nhập Niết-bàn. Tôi cũng vậy, tôiđến đi rõ ràng, về có nơi chốn. Xin đừng buồn rầu, hãycố gắng tinh tấn hơn lên".

Tháng 11 âm lịch năm ấy, mấy ngàytrước khi mất, ngài ngồi dậy tự tay viết bốn câu:

"Ngoài bảy mươi năm trongthế giới
Không không sắc sắc thấy dungthông

Ngày nay nguyện mãn về nơi cũ

Nào phải ân cần hỏi tổ tông".
Viết xong, ngài bảo các đệ tử:"Các vị xem này, tôi đến với cõi đời này giản dị biếtbao nhiêu. Tôi sẽ ra đi trọn vẹn. Mai sau các vị hãy áp dụngthực hành Thánh hạnh. Xin hãy cố gắng chớ quên lời dạybảo của tôi".

Ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất (tháng12 năm 1742) sau khi dùng trà, hành lễ buổi sáng, ngài hỏiđệ tử mấy giờ. Các đệ tử đáp bây giờ là giờ mùi(khoảng 1 đến 3 giờ chiều), ngài thở hơi cuối cùng.

Chúa Minh vương Nguyễn Phúc Chu banthụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng để khắcbia.

Di thể được chuyển mai táng ngày19 tháng 2 năm Quý hợi (1743) ở ngôi tháp mới nằm phía Namnúi Thiên Thai, trên the đất làng An Cựu, huyện Hương Trà,tỉnh Thừa Thiên (cũ).

Ngài Liễu Quán sinh giờ Thìn (khoảng7 đến 9 giờ sáng) ngày 13 tháng 11 năm Ðinh vị (1667), viêntịch ngày 22 tháng 11 năm Nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Hưngthứ III (1742), 43 tuổi hạ, 76 tuổi đời, độ 49 đệ tửxuất gia danh tiếng và rất đông đệ tử tại gia.

Người thế tục cho rằng thế giancó sanh tử khứ lai, nhưng đối với Ngài Liễu Quán thì khôngnhư vậy. Thương kính Ngài, vị Thiền sư khả kính của chúngta không còn nữa, Ngài đã nhập Niết-bàn. Vậy không phảinói gì cho Ngài nữa, nhưng những công nghiệp phục vụ đạopháp của Ngài được ghi lại đây là để làm tỏ rạng đạogiáo cho tương lai chúng ta.

Xin thú nhận rằng, nhân duyên nhậpđạo, sự nghiệp truyền đăng của ngài quá đặc biệt lớnlao, tôi không sao rõ hết được, nên nơi đây chỉ thuậtlại được đôi phần, như kẻ mù rờ voi vậy.

Pháp hiệu Thiện Kế kính soạn.

(Sư Thiện Kế sau về Trung Quốcvà mất luôn bên ấy).

Hiện nay cách phía sau tháp độ800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tửtiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp đẽ khang trang,trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ8 (1747) là di vật quý nhất.

15.11.1986

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2025(Xem: 149)
Trong giao tiếp xã hội, chúng ta thường nghe những hình thức khen và chê. Có người tự khen mình học giỏi, kinh doanh thành công, và rồi chê người khác học kém, kinh doanh thất bại. Đôi khi trong tứ chúng của Phật giáo cũng có người suy nghĩ rằng: "Tôi giỏi, người khác kém." Đừng nghĩ như thế. Đức Phật dạy rằng người tu hãy lo tu theo đúng chánh pháp, và đừng khen mình hay chê người.
01/02/2025(Xem: 245)
Lại một mùa Xuân Ất Tỵ trở về trong những ngày cuối đông Giáp Thìn, nhìn thấy chính mình trong vạn nẻo nhân duyên, để từ đây ta vui chơi trong cõi đời sanh tử. Năm cũ đã bước sang, ta nhìn sâu vào trong tâm thức, các thiên tai cướp đi bao muộn phiền khiến cho con người điêu linh trong từng hơi thở. Vì chiến tranh tàn khốc trên thế giới, khiến xung đột từng hệ tư tưởng, hạn hán cháy rừng, thiên tai bão lụt, cướp mất bao tính mạng con người. Từ lòng tham bên trong khởi hành, tạo ra bao nhiêu oán trách, để chính chúng ta bị nhiều khổ đau.
28/01/2025(Xem: 673)
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng-Ni cùng các huynh đệ đồng môn pháp lữ. Kính thưa toàn thể quý Phật tử và thân bằng quyến thuộc trong và ngoài nước! Sư Cô Thích Nữ Diệu Phước, thế danh Phan Thị Niềm ( Mẫu thân của chúng con/chúng tôi), sinh năm 1940 và mãn duyên trần lúc 15 giờ 40 phút ngày 21 tháng 1, 2025 (nhằm ngày 22 tháng 12 năm Giáp Thìn), thọ thế 85 tuổi.
26/01/2025(Xem: 1291)
CHIA SẺ PHẬT PHÁP: TẠO PHƯỚC BẰNG TẤM LÒNG và HỌC ĐỨC KHIÊM TỐN. Âm Đức và Dương Đức: Xin mời quý vị đọc những đoạn thơ bên dưới và cùng chúng tôi cố gắng thực tập:
26/01/2025(Xem: 616)
NGÀY XUÂN NHỚ VỀ KỶ NIỆM BÀI CA CỔ: “ LỜI NGUYỆN CẦU TRÊN ĐẤT NƯỚC VẠN XUÂN” Trong những ngày cả nước đang náo nức, rộng rã chuẩn bị đón mùa xuân mới, Xuân Ất Tỵ 2025 - Phật lịch 2568. Là một người con Phật, yêu Dân Tộc, yêu Đạo Pháp thiết tha từ những ngày ấu thơ và trưởng thành qua các đoàn thể thanh niên Pht giáo thuần túy, cho đến tận hôm nay; đóng góp cho thành quả chung qua khả năng chuyên môn, nhất định của mình. Do vậy trong long người viết cũng rộng ràng với mùa xuân không kém, đặc biệt với khía cạnh lịch sử Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam (PGVN) , điều đó càng trở nên sâu đậm, nhiều ý nghĩa hơn.
25/01/2025(Xem: 438)
Tôi sinh ra đời khi Thế chiến thứ hai bắt đầu bùng nổ tại Âu châu. Thế nhưng tại một tỉnh lỵ nhỏ bé tại miền Nam trên quê hương tôi, nơi tôi sinh ra đời, thì người dân vẫn sống yên lành. Thật ra gốc gác của gia đình tôi ở thật xa nơi này, tận miền Bắc. Cha tôi là một công chức trong chính quyền thuộc địa, được thuyên chuyển về cái tỉnh lỵ này một năm trước khi tôi ra đời. Tuy thế, khi lớn lên tôi vẫn cứ xem cái tỉnh lỵ bé tí xíu đó là cả một góc quê hương gần gũi và thân thiết nhất đối với tôi, nơi mà người ta chôn buồng nhau của mẹ tôi và cái cuống rốn của tôi.
25/01/2025(Xem: 965)
Xuân về, mong đời một cõi an nhiên! Ngày 25 tháng chạp, khi Trời còn nặng hơi sương, tôi thức dậy sớm để cùng gia đình chuẩn bị tảo mộ ông bà, một phong tục thiêng liêng của người Việt Nam. Buổi sáng, tôi theo dì đi chợ, chợ hôm nay đông hơn mọi ngày, không khí Tết đã về trên những nẻo đường, tấp nập và nhộn nhịp. Sau khi đi chợ về, cậu làm một mâm cơm để cúng, xin ông bà cho phép cháu con được động vào mồ mả, rồi tôi và người trong gia đình bắt đầu quét dọn, nhổ cỏ, lau mộ, những nén nhang trầm tỏa làn khói ấm làm cho không gian nơi yên nghỉ của ông bà tổ tiên càng trở nên linh thiêng, ấm cúng.
25/01/2025(Xem: 587)
Từ đâu có tham, sân, sợ hãi, niệm? Nguyên Giác Trong Thiền Tông thường nói rằng khi ngọn đèn sáng thắp lên, thì bóng tối của vô lượng kiếp sẽ biến mất. Hình ảnh đó còn được giải thích là, khi người tu thấy được ánh sáng của bản tâm, nơi không có gì được bám víu, thì vô lượng nghiệp xấu đều biến mất. Kinh điển giải thích điểm này thế nào?
22/01/2025(Xem: 1024)
Vần Thơ Tiễn Biệt Bạn Hiền Phật tử Nguyễn Thị Truyên Pháp danh: Quảng Hoa (1957-2024)
22/01/2025(Xem: 600)
(Lời giới thiệu của Nguyên Giác: Phật Giáo chưa bao giờ biến mất khỏi Ấn Độ. Phật Giáo chỉ tàng hình, hội nhập vào văn hóa Ấn Độ. Bài viết nhan đề "Theory That Buddhism Vanished From Its Birthplace, India, Is Being Challenged" [Lý Thuyết Nói Rằng Phật Giáo Biến Mất Khỏi Nơi Xuất Phát, Ấn Độ, Đang Bị Thách Thức] là của P. K. Balachandran, một nhà báo Ấn Độ kỳ cựu làm việc tại Sri Lanka cho các cơ quan truyền thông địa phương và quốc tế và đã viết về các vấn đề Nam Á trong 21 năm qua. Bài này trên tạp chí Eurasia Review, nhận định về sách "Casting the Buddha: A Monumental History of Buddhism in India" [Đón Nhận Đức Phật: Một Lịch Sử Hùng Vĩ của Phật Giáo tại Ấn Độ) của tác giả Shashank Shekhar Sinha]. Sau đây là bản Việt dịch.)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]