Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Khuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma về việc Sùng bái Shugden (Dolgyal)

13/02/201316:39(Xem: 7451)
Lời Khuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma về việc Sùng bái Shugden (Dolgyal)
dalailama-2007

LỜI KHUYÊN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
VỀ VIỆC SÙNG BÁI SHUGDEN (DOLGYAL)

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Theo những nghiên cứu lâu dài và cẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal). Mặc dù bản thân ngài đã có lúc thực hành việc xoa dịu Dolgyal, vào năm 1975 Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từ bỏ thực hành Shugden (Dolgyal) sau khi khám phá những vấn đề sâu xa về lịch sử, xã hội và tôn giáo được liên kết với thực hành này. Ngài đã làm như thế với sự thấu suốt và hỗ trợ hết lòng của Thầy Phụ giáo của ngài là Kyabje Trijang Rinpoche quá cố, là vị Thầy mà từ đó ngài đã nối kết với thực hành này. Ngay cả trong các trường phái Geluk và Sakya – đa số các hành giả Shugden (Dolgyal) thuộc về các truyền thống Phật Giáo Tây Tạng này – việc xoa dịu tinh linh này đã từng gây ra những cuộc tranh cãi trong suốt lịch sử của các phái này. Việc nghiên cứu về lịch sử tiết lộ rằng thực hành Shugden (Dolgyal), là thực hành có tính chất bộ phái mạnh mẽ, đã có một quá trình lịch sử trong việc góp phần vào xu thế bất hòa, chia rẽ trong nhiều bộ phận của Tây Tạng, và giữa những cộng đồng Tây Tạng với nhau. Vì thế, từ năm 1975 cho tới nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên công khai bày tỏ quan điểm của ngài là mọi người không nên theo đuổi thực hành này, dựa trên ba lý do sau đây:

1. Phật giáo Tây Tạng có nguy cơ bị suy đồi thành một hình thức sùng bái tinh linh: Lúc ban đầu Phật giáo Tây Tạng được phát triển từ truyền thống cổ xưa và xác thực được duy trì trong Đại học tu viện Nalanda vĩ đại của Ấn Độ, là truyền thống mà Đức Đạt Lai Lạt Ma thường mô tả là một hình thức hoàn hảo của Phật giáo. Nó là hiện thân giáo lý nguyên thủy của Đức Phật khi được phát triển qua những nội quán triết học, tâm lý học và tâm linh phong phú của những Đạo sư Phật giáo vĩ đại như Nagarjuna (Long Thọ), Asanga (Vô Trước), Vasubandhu (Thế Thân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng). Từ khi nhà luận lý và triết gia vĩ đại Shantarakshita có công lao thiết lập Phật giáo ở Tây Tạng trong những giai đoạn đầu của nó vào thế kỷ thứ tám, yêu cầu triết học và phân tích phê bình luôn luôn là những đặc điểm quan trọng của Phật giáo Tây Tạng. Vấn đề của thực hành Shugden (Dolgyal) nằm ở chỗ nó giới thiệu tinh linh Shugden (Dolgyal) như một vị Hộ Pháp và hơn nữa, nó có khuynh hướng quảng bá tinh linh này còn quan trọng hơn cả chính Đức Phật. Nếu khuynh hướng này không được kiểm soát, và những người ngây thơ bị cám dỗ bởi những thực hành giống như sự sùng bái của loại tinh linh này, thì truyền thống phong phú của Phật giáo Tây Tạng có nguy cơ bị suy đồi thành sự đơn thuần xoa dịu các tinh linh.

2. Là những chướng ngại cho việc phát triển tinh thần bất bộ phái đích thực: Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng một trong những hứa nguyện quan trọng nhất của ngài là việc đẩy mạnh sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo với nhau. Như một phần của nỗ lực này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã hết lòng khuyến khích tinh thần bất bộ phái trong mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng. Trong việc này, Đức Đạt Lai Lạt Ma đang noi theo gương mẫu của những vị tiền nhiệm của ngài, đặc biệt là Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Năm và Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Mười ba. Không chỉ là một tiếp cận bất bộ phái tương tác mang lại lợi lạc cho mọi trường phái Phật giáo Tây Tạng, nó còn là sự che chở tuyệt hảo để đương cự lại sự phát triển tinh thần bộ phái có thể mang lại những hậu quả tai hại cho truyền thống Tây Tạng nói chung. Căn cứ vào sự nối kết được thừa nhận giữa việc sùng bái Shugden (Dolgyal) và tinh thần bộ phái, thực hành đặc biệt này duy trì một chướng ngại chủ yếu cho việc thúc đẩy một tinh thần bất bộ phái đích thực trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng.

3. Đặc biệt không thích hợp trong việc mang lại hạnh phúc cho xã hội Tây Tạng: Căn cứ vào những hoàn cảnh khó khăn hiện tại của người dân Tây Tạng thì việc xoa dịu Shugden (Dolgyal) mang lại rắc rối đặc biệt. Những nghiên cứu về Kinh luận và lịch sử cho thấy tinh linh Dolgyal xuất hiện do sự thù địch đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Năm vĩ đại và chính phủ của ngài. Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ Năm, nhà lãnh đạo tâm linh và thế tục của Tây Tạng vào thế kỷ 17, đã đích thân lên án Shugden (Dolgyal) là một tinh linh xấu ác xuất hiện từ những ý hướng lầm lạc và tác hại đến hạnh phúc của chúng sinh nói chung và chính phủ Tây Tạng do các Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo nói riêng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Mười ba và những Đạo sư tâm linh tôn kính khác của Tây Tạng cũng đã mạnh mẽ phản đối thực hành này. Vì thế, trong bối cảnh hiện nay của Tây Tạng, khi sự đoàn kết giữa nhân dân Tây Tạng thì vô cùng cần thiết, việc dấn mình vào thực hành xoa dịu Shugden (Dolgyal) gây tranh cãi và chia rẽ này thật không thích hợp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ kêu gọi các môn đồ của ngài xem xét cẩn thận vấn đề thực hành Shugden (Dolgyal) trên căn bản của ba lý do này và hành xử một cách phù hợp. Ngài đã tuyên bố rằng, là một nhà lãnh đạo Phật giáo với mối quan tâm đặc biệt về dân chúng Tây Tạng, ngài có trách nhiệm phải phản đối những hậu quả tai hại của loại sùng bái tinh linh này. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ rằng lời khuyên của ngài có được lưu ý hay không, đó là việc của mỗi người. Tuy nhiên, bởi bản thân ngài cảm nhận mạnh mẽ về sự tiêu cực của thực hành này, ngài đã yêu cầu những ai tiếp tục xoa dịu Shugden (Dolgyal) đừng tham dự những khóa giảng tôn giáo chính thức của ngài, là điều mà theo truyền thống đòi hỏi phải thiết lập một mối liên hệ Đạo sư-đệ tử.

Nguyên tác: “His Holiness the Dalai Lama’s Advice Concerning Dolgyal (Shugden)”
http://www.fpmt.org/organization/announcements/shugden/

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2011(Xem: 7457)
Tiếp theo, chúng ta nói về sự bố thí. Phía trước tôi đã nói đến có một lần tôi ở trường học, hôm khánh thành toà lầu Học viện Thương nghiệp, tôi cũng tham gia buổi lễ khai mạc. Trong buổi lễ, nhà trường có mời một vị giáo thọ người Mỹ nổi tiếng của Học viện Thương nghiệp đến diễn giảng. Sau khi tôi nghe rồi, tôi có cảm khái rất sâu sắc. Bởi vì ngay lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái nói với hiểu trưởng, tôi cười đùa mà nói với ông rằng giáo trình của Học viện Thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy.
02/10/2011(Xem: 8472)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
25/09/2011(Xem: 9322)
Chúng ta không cần đi đâu xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kênhững sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác...
25/09/2011(Xem: 8890)
Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.
24/09/2011(Xem: 7113)
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
21/09/2011(Xem: 16975)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 7447)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng làđiều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
15/09/2011(Xem: 9558)
* Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.
15/09/2011(Xem: 8356)
Ngài Achaan Chah là một trong những vị đại sư nổi tiếng của đất nước chùa tháp Thái Lan. Ngài duy trì lối tu học truyền thống như thời của Đức Phật còn tại thế. Sự minh triết và đức hạnh của một vị thiền sư đã làm cho danh tiếng của Ngài vươn xa tới nhiều châu lục. Hiện nay, pháp thiền của Ngài - Thiền Minh sát tuệ - đã lan tỏa mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm A Still Forest Pool(Tâm Tĩnh Lặng), do hai môn đệ người Mỹ của Ngài là Jack Kornfield và Paul Breiter đã kết tập từ những bài giảng của Ngài và được xuất bản bằng tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1985. Mặc dù tác phẩm đã ra đời trên hai mươi năm, nhưng trí tuệ chân thực vẫn luôn tồn tại mãi với thời gian. Bài giảng sau đây, người dịch trích từ tác phẩm trên và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
15/09/2011(Xem: 8072)
Xưa, có người Bà la môn nọ ở với hai người vợ. Vợ đầu sinh được con trai, đã mười hai tuổi; vợ hai đang mang thai, sắp đến kỳ sinh nở, chưa rõ trai hay gái. Chẳng may Bà la môn nọ qua đời. Đứa con trai nói với bà hai rằng: “Tiểu mẫu! Tài sản mà cha tôi để lại, bao gồm vàng bạc hay thóc lúa..., tất thảy bây giờ đều là của tôi, tiểu mẫu không được gì hết!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]