Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vu Lan bàn về lý luận và sự thật của việc siêu độ

27/06/201103:31(Xem: 9541)
Vu Lan bàn về lý luận và sự thật của việc siêu độ

VULAN BÀN VỀ LÝ LUẬN VÀ SỰ THẬT CỦA VIỆC SIÊU ĐỘ
Phápsư: HT. TỊNH KHÔNG

Lý luậnviệc siêu độ

Thángbảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trongâm gian địa phủ xuất hiện ở nhân gian. Vì vậy trong thángnày, việc Phật sự siêu độ theo đó cũng rất bận rộn.Một số thắc mắc được đặt ra: “Liệu việc siêuđộ rốt cuộc có hiệu quả hay không? Việc siêu độ cónhất thiết phải do người xuất gia thực hiện hay không?

NhàPhật có phương pháp và lý luận của việc siêu độ rấthợp tình, hợp lý và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêuđộ quy mô lớn này lại không thường thấy trong Phật giáonguyên thủy. Ngay trong kinh điển đại thừa Trung Quốc phiêndịch, ghi chép việc này rất rõ ở “Địa Tạng Bồ tátbổn nguyện kinh”. Trong kinh cho thấy nữ Bà la môn, nữQuang Mục đều là người trẻ tuổi hiếu thảo. Cha mẹ củahọ do thiếu tri thức đã tạo nhiều nghiệp tội phải đọavào ba đường ác.

Chúng sinhtạo tác nghiệp tội, gieo nhân lúc sinh thời

ĐứcPhật nói, mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn,do vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biếnhiện ra. Cũng giống như trong mộng, cảnh giới trong mộngtuy không thật, nhưng không thể nói nó không có. Tình trạngsáu cõi cũng vậy, do vọng tưởng, phân biệt, cộng thêm chấptrước nghiêm trọng liền biến hiện ra tướng sáu cõi luânhồi. Hay nói cách khác, nếu chúng sinh không vọng tưởng,phân biệt chấp trước, không những không có lục đạo, màmười pháp giới cũng không có. Vì vậy đức Phật nói, nhữnghiện tượng này như mộng huyễn, và những hư ảo này chỉtồn tại khoảng thời gian không lâu. Đức Phật lại nêura một ví dụ “Như sương cũng như điện”. Sươnglà giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, thời giantồn tại của nó không dài. Điện là tia chớp, thời giantồn tại càng ngắn hơn. Trong kinh Bát Nhã, đức Phật cũngđem chân tướng sự thật này nói rất rõ ràng tường tận.Lý luận và phương pháp siêu độ cũng không rời khỏi nguyênlý này.

Tấtcả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh.Trongsáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác.Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả, trong mộngnếu gặp hổ muốn ăn thịt, thì người nằm mộng cũng sẽkhiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, tâm vẫn còn sợhãi. Cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ lại thật.Sống trong ác đạo phải thọ những khổ đau này. Kinh điểncó ghi chép, A La Hán là người đắc đạo, không phải phàmphu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá khứ,nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo tác trong nămtrăm kiếp quá khứ, bao gồm những việc khổ vui đã nhậnchịu, hoặc ngay trong năm trăm đời đã từng đọa địa ngục.Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnhtrong địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm còn run sợ, thậmchí toàn thân rướm máu.

Phương thứcquy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới

ĐứcPhật dạy người không vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiênkhông vọng ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật.Do đó phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Ngườitạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác: địangục, ngã quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt cũngkhông phải Phật Bồ tát trừng phạt. Phật Bồ tát đạitừ đại bi, tuyệt đối không trừng phạt người ác. ĐứcPhật vẫn nói “tự làm tự chịu”, mỗi ngườitự tạo loại nghiệp thì tự nhiên sẽ cảm được quả báo,nhân quả nghiệp báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảngrõ ràng, nhưng lý cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu cũngkhông có tuổi thọ dài để lĩnh hội. Cho nên ngài dạy chúngsinh chọn lấy phương pháp tự nhiên đơn giản, đó là phươngpháp quy nạp. Đức Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười phápgiới, từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên cao.

- Nghiệpnhân của địa ngục: là sân hận, tâm sân cảm địangục. Người mang tâm sân hận nặng, chắc chắn sinh đốkỵ, thủ đoạn tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng,chiêu cảm quả báo địa ngục thì tự nhiên biến hiện racảnh giới địa ngục.

- Nghiệpnhân của ngạ quỷ: là tham không chán, tức hưởngthụ chiếm hữu, giành giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dụcsáu trần bất chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, khôngxả cho người khác, liền biến hiện ngạ quỷ.

- Nghiệpnhân của súc sinh: là ngu si. Không có năng lực phânbiệt chân vọng, không phân biệt chánh tà, thậm chí thịphi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Ngườingu si thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xemthành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ, không có năng lựcphân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào đường súc sinh.

Bađường ác, sáu cõi luân hồi là cảm thọ từ những việclàm của chính chúng ta, không phải do sức mạnh nào đó đangchi phối, an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiêncủa nghiệp lực.

- Nghiệpnhân của cõi người: là luân thường mà trong Phậtpháp gọi là “ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp,không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Nhà Nho TrungQuốc còn gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” tương đồngvới nội dung ngũ giới của nhà Phật. Con người ngay trongđời, mọi sinh hoạt, lời nói việc làm đều phải tuân thủnguyên tắc này thì mới có thể giữ được thân người tronglục đạo. Hoàn toàn không có ngẫu nhiên

- Cõitrời:phước báu của cõi trời cao hơn so với cõingười, do đó điều kiện cũng cao hơn so với cõi người.Muốn đến cõi trời phải tu mười thiện, tư tưởng hànhtrì phải tương ứng với mười thiện bao gồm: thân khôngsát sinh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối, nói haichiều, nói lời ác, thêu dệt; ý không tham, sân, si. Ngoàira còn pháp thiện cũng từ trong mười điều thiện này màsinh ra. Người có thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp vớiviệc giữ tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứvô lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm: từ vô lượng, bivô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.

- CõiA tu la: người tu ngũ giới mười thiện nhưng khôngcó tứ vô lượng tâm, quả báo của họ biến thành Tu la.Không có tứ vô lượng tâm, hưởng phước rồi mê hoặc,điên đảo. Trong kinh đức Phật nói, A Tu La không đoạn đượctham sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp thiện, tu ngũgiới, họ có phước báu lớn của trời người nhưng lạikhông có đức của trời người. Vì thế A tu la có tính cáchhung bạo, háo thắng, đố kỵ. Chẳng hạn, người mang tâmháo thắng mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhấtđịnh giành thắp hương đầu tiên, không bằng lòng đứngsau người khác. Họ có tu thiện không? Có, họ cũng tu tíchcông đức nhưng lại háo thắng. Quả báo luôn rơi vào đườngTu la.

ĐứcPhật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh, bồ tát đạo, tu tâmkhiêm hạ, khiêm tốn nhường nhịn. Xem trong kinh Hoa Nghiêmthấy được 53 vị đồng tham, 53 vị pháp thân đại sĩ đềulà Phật bồ tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vậtcủa họ rất khiêm nhường tôn kính, không một chút ý niệmngạo mạn, không háo thắng. Học Phật đoạn ác tu thiện,tích công bồi đức. Ngạo mạn háo thắng nếu không thểsửa thì kết quả biến thành A tu la. Hướng lên trên là cácthanh văn tu tứ đế, “khổ tập diệt đạo”, bậc duyêngiác tu “thập nhị nhân duyên”, bồ tát tu “lục đạo”,chư Phật tu “bình đẳng”. Thanh tịnh bình đẳng chính làPhật đạo. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đem nghiệp nhân phứctạp của mười pháp giới qui nạp lại thành trọng điểmdạy cho chúng ta giúp mọi người hiểu rõ nguyên nhân củaquả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc họcPhật không thể không hiểu, không thể không biết.

Công đứcsiêu độ mẹ được nêu trong kinh Địa tạng

Đốivới khởi tâm động niệm, chúng ta sẽ tự biết tương ứngvới đường nào. Không hiểu đạo lý, không biết chân tướngsự thật, làm càng làm quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ácđạo. Dù có con hiền cháu thảo cũng khó lòng giải trừ được,huống hồ xã hội hiện nay người hiếu thảo càng ngày càngít. Trong kinh Địa tạng, nữ Quang Mục, nữ Bà la môn là nhữnghiếu tử, thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp, rơi vào ácđạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ. Tâmchân thành liền cảm động Phật bồ tát.

Cầnhiểu rõ Phật bồ tát không thể cứu giúp, cácngài chỉ có thể đem phương pháp lý luận cứu giúp truyềnlại cho chúng sinh. Phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượngvô biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất.Nữ Bà la môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa ĐịnhNhư Lai, tuy không niệm Phật A Di Đà, nhưng niệm Giác Hoa ĐịnhNhư Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này vì muốn cứu khổnạn cho mẹ, cô thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không tin,không thể tiếp nhận, cho nên bà gặp quả báo địa ngục.Theo lời Phật dạy, cô dụng công niệm Phật bằng tâm khẩnthiết. Sau khi nỗ lực hết mình, niệm một ngày một đêmthì cô được định.

Trạngthái nhất tâm bất loạn trong niệm Phật thuộc về sự côngphu rất cao. Tâm của phàm phu là tán loạn. Niệmđến nhất tâm bất loạn tương đương với A La hán củatiểu thừa, rất khó đạt được. Kinh Địa Tạng làkinh đại thừa, nữ Bà la môn không phải là A la hán củatiểu thừa nhưng công phu đoạn chướng của cô tương đươngA la hán, công đức tu tích vượt lên trên A la hán, ngang hàngbồ tát. Đến cảnh giới định cô liền nhìn thấy địangục biến hiện ra. Trong địa ngục, quỷ vương gác cửathấy cô liền cung kính gọi bồ tát và lễ phép chào hỏi.Cô liền hỏi quỷ vương về mẹ cô hiện ở nơi nào trongđịa ngục. Quỷ vương chắp tay kính cẩn chúc mừng rằngnhờ cô phát nguyện siêu độ nên bà ấy đã thoát khỏi địangục, được sinh lên cõi trời. Cách siêu độ rất hiệunghiệm mà không cần phải mời pháp sư đến tụng kinh, báisám. Tự thân niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn,rồi dùng công đức này hồi hướng cho cha mẹ. Chúngta nhất định phải thể hội chân thành. Tu hành chứng quảkhông dễ, tại sao nữ Bà la môn chỉ trong một ngày một đêmcó thể niệm đến nhất tâm bất loạn? Nếu mẹ cô khôngđọa địa ngục, không bị những khổ nạn, thì cô sẽ khôngcó động lực tha thiết niệm Phật đến vậy.

Ngàynay chúng ta niệm Phật nhiều năm tại sao ngay cả công phucũng không đạt được huống hồ nhất tâm bất loạn. Đólà do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu rơivào A tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta mớitoàn tâm toàn lực muốn cứu giúp. Đức Phật truyền traophương pháp này, chúng ta hãy nỗ lực tu thành. Mẹ của nữBà la môn đã làm tăng thượng duyên cho cô, nếu bà khôngbị đoạ địa ngục thì cô sẽ không có thành tựu này. Vậynguồn gốc sâu xa là mẹ cô đã giúp cô, cô cũng giúp lạimẹ cô. Khi cô trở thành bồ tát, quỷ thần đối đãi cungkính với mẹ cô, không thể đối đãi như những tội nhânthông thường. Kinh nói “bảy phần công đức, mình đượcsáu phần”, phần còn lại hồi hướng cho thân bằng quyếnthuộc. Đôi bên đều được công đức mới thật sự viênmãn.

Muốnsiêu độ cho thân bằng quyến thuộc, chúng ta phải chăm chỉtu hành, tích công lũy đức, thật tâm siêu độ. Việc tu hànhthành tựu thì người thân mới được độ. Cũng như ở thếgian, muốn cho cha mẹ tự hào, thân bằng quyến thuộc và mọingười trong xã hội tôn kính, chúng ta phải thành tựu họcvấn, thành tựu đức hạnh của mình. Đi đến đâu, chúngta cũng được đặc biệt tôn trọng, quan tâm, chiếu cố.Đó chính là cảm ứng tự nhiên, là đạo lý. Khi hiểu rõđạo lý này, lúc đó chúng ta có thể liên tưởng đến nguyênlý vừa nêu trong kinh Địa Tạng. Siêu độ nếu có công đức,có thể giúp đỡ vong gia đã tạo tác nghiệp tội.

Câuchuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hànhcủa cô không thù thắng như nữ Bà la môn. Cô cũng niệm Phật,trong thời gian rất ngắn đạt được cảnh giới định trongmơ. Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trongmộng rất nhiều. Cô có được cảnh giới trong mộng cũngđược xem là thành tựu.

Chúngta hết lòng muốn cứu người thân nên mới liều mạng dụngcông tu học, thành tựu của chúng ta cũng chính là thành tựucủa họ, ta không thành tựu, thì họ cũng không. Đây là nguyêntắc bất di bất dịch.

Siêu độtrong tự truyện
“Cảnhtrần hồi ức lục” của pháp sư Đàm Hư, Trung Quốc

Lãopháp sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên “Cảnh trần hồiức lục”do đệ tử của ông là Đại Quang pháp sư ghi chéplại, quyển sách này lưu thông rất phổ biến ở Đài Loan,bên trong có một đoạn nói về việc siêu độ. Vào lúc đóĐàm lão chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn, hơn 40 tuổi.Trước khi xuất gia, ông đã học Phật và rất dụng công.Trước lúc xuất gia ở Thiên Tân, ông cùng mấy vị đồngđạo hợp nhóm cùng nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm suốt tám nămlạnh giá. Trong số các bạn ông, có một vị họ Lưu mởtiệm thuốc Bắc cũng rất tâm đắc và lĩnh ngộ đối vớikinh Lăng Nghiêm. Tuy sự công phu còn kém xa so với nữ Bà lamôn và nữ Quang Mục trong kinh Địa tạng nhưng sự công phucủa vị họ Lưu cũng có hiệu quả. Một buổi trưa nọ, tiệmthuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, ông Lưu ngủ gục trênquầy. Lúc đang ngủ, ông Lưu mộng thấy có hai người điđến. Hai người này vốn trước đây là oan gia trái chủcủa ông, họ thiếu nợ ông, và ông tìm đến họ đòi nợ.Hai người này vì không có khả năng trả nợ nên treo cổtự tử. Sau vì việc này, ông Lưu thường cảm thấy rấtkhó chịu, nếu ông không tìm họ đòi nợ, thì hai ngườinày sẽ không treo cổ. Ông luôn cảm thấy hối tiếc và ănnăn về điều đó. Bây giờ nằm mộng gặp lại họ nên ôngrất sợ bị gây phiền phức. Tuy nhiên hai người này vẻmặt hiền lành, không bày tỏ thái độ muốn đến hại ông.Cho nên ông hỏi họ: “các người đến làm gì?” Hai ngườitrả lời: “chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Ngheđến đó, tâm ông Lưu liền được an, không lo sợ bị báothù. Ông lại hỏi tiếp: “vậy phải siêu độ thế nào chocác người?”. Họ nói: “chỉ cần ông đồng ý là được”.Ông Lưu gật đầu: “được, tôi đồng ý”. Lập tức hailinh hồn này đạp vào đầu gối và đạp vào vai ông rồiđược sinh lên trời.

Haingười này đi không bao lâu, lại có hai người nữa, chínhlà vợ con ông đã qua đời. Họ cũng đến quỳ trước mặtông cầu xin siêu độ. Ông liền hỏi: “làm thế nào đểsiêu độ?”. Cũng như lần trước, ông bằng lòng và thấyhai hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sinh thiên.“Cảnh trần hồi ức lục” còn ghi rõ, siêu độ cần phảido chính chúng ta có công phu tu học. Không có công phu, khôngthể siêu độ cho người khác. Công phu của ông Lưu là támnăm lạnh giá học Lăng Nghiêm.

Nguồn gốchình thức siêu độ quy mô lớn

Chúngta có thể đem câu chuyện trong “Cảnh trần hồi ức lục”cùng kinh Địa Tạng hợp lại mà khẳng định, loại Phậtsự siêu độ qui mô lớn thời hiện đại không hề tồn tạivào thời đức Phật. Thời gian đầu học Phật, chúng tôicũng có nghi vấn về việc này và đã từng thưa hỏi vớipháp sư Đạo An.

Nămxưa chúng tôi có mối quan hệ rất tốt với pháp sư ĐạoAn. Pháp sư Đạo An thành lập đại chuyên giảng tòa ở ĐàiBắc, mời chúng tôi đảm nhiệm tổng chủ giảng. Chúng tôiliên lạc qua lại từ lúc ở Tòng Sơn tự sau đó dời đếncạnh Thiện Đạo tự ở tầng trên của đại giảng đườnghội Phật giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một lần.Khi đó học sinh rất đông, khoảng hơn 800 người, miền Bắctừ Cơ Long, miền Nam từ Tân Trúc. Đó là thời kỳ hưng thịnhcủa hội Phật giáo. Pháp sư Đạo An là người phụ tráchkiêm chủ tịch giảng tòa. Vào lúc đó ngoài chúng tôi, còncó pháp sư Ấn Hải, pháp sư Trí Dụ cùng phụ trách dạyhọc. Chúng tôi đã thỉnh giáo với lão pháp sư Đạo An rằng:“việc siêu độ từ đâu mà ra?”. Ngài suy nghĩ một lúcrồi nói đại khái, căn gốc của việc siêu độ là từ vuaĐường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi Quách Tử Nghĩabình định động loạn, triều đình ở mỗi một chiến trườnglớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên tự, vì xâydựng vào niên hiệu Khai Nguyên. Xây dựng tự miếu này mụcđích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hộisiêu độ đó cũng giống như lễ truy điệu hiện nay. Mờimột số cao tăng đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng,truy điệu nhằm mang ý nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng.Sau này dân gian dần dần bắt chước theo, cũng mời pháp sư,đại đức tụng kinh, bái sám siêu độ tổ tiên.

Dođây mà biết, trước năm Khai nguyên không có việc này. Pháphội siêu độ của Khai nguyên về sau đích thực phát triểnnhưng đến nay đã hoàn toàn biến chất. Trước đây, siêuđộ là việc làm phụ của tự viện, mỗi năm không quá hailần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu hành.Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng, Phật giáo ở thế gianlà độ người chứ không độ quỷ, độ người sống chứkhông độ người chết.

Phương thứctu học xưa và nay

Trướcđây tự viện trong Tòng lâm Ấn Độ nhìn chung hoạt độnghai thời giảng kinh, hai thời tu hành. Người Ấn Độ xưachia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời ban ngày gọilà sơ nhật, trung nhật, hậu nhật; ba thời ban đêm gọi làsơ dạ, trung dạ, hậu dạ. Trung Quốc xưa sử dụng mườihai thời: Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi… Còn hiệntại, chúng ta đang dùng đơn vị thời gian của Tây phương,tức là ngày đêm gồm hai mươi bốn tiếng. Như vậy, hai tiếngđồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung Quốc,hai thời khắc của Trung Quốc mới là một thời khắc củaẤn Độ. Thời xưa, tự viện Tòng lâm giảng kinh hai thời,tương đương tám tiếng đồng hồ hiện nay.

Tựviện là trường học dành cho người xuất gia và cư sĩ thườngtrú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi danh nghe kinh. Thôngthường giảng một bộ kinh phải mất ít nhất ba tháng đếnmột năm. Cư sĩ được đồng ý phê chuẩn có thể ở lạimột năm trong tự viện, cúng dường phí dụng sinh hoạt, đồngthời làm công quả như quét nhà, dọn dẹp,... Mỗi ngày ngoàitám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, còn phải tuhành. Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hailoại trọng điểm, đó là niệm Phật và tham thiền.Vì thế mà có thiền đường, niệm Phật đường. Tám tiếnghọc thuật, tám tiếng tham thiền hay niệm Phật, còn lạitám tiếng để nghỉ ngơi sinh hoạt. Đạo tràng huân tu, conngười không vọng tưởng, thậm chí không có thời gian đểvọng tưởng, không có thời gian sinh phiền não. Hiệu quảnổi bật. Sau ba tháng ở đạo tràng, khí chất con ngườithay đổi.

Hiệnnay, đạo tràng tự viện không còn, giải môn không có, rấtít giảng kinh, công phu. Người ta chú trọng xây Phật thất,tu sửa thiền thất, lấy việc siêu độ người chết làmchính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây độngười sống, bây giờ Phật giáo độ người chết. Trướcđây là giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo.Vìvậy chúng ta cần sáng suốt hiểu rõ để tiếp nhận giáodục của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cải thiện cuộc sống,nâng cao cảnh giới của chính mình trong tương lai. Đó mớilà bước đột phá. Mười pháp giới chính là mười thời,không khác nhau. Đức Phật dạy chúng ta đột phá sáu cõi,mười pháp giới mới có thể chứng được nhất chân phápgiới.

Siêu độquy mô lớn có hiệu quả hay không?

Khôngthể nói không hiệu quả, quan trọng là ở người chủ pháphay người chủ trì siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng,sức mạnh được khẳng định. Giống như Lương Võ Đế ngàyxưa rất yêu quí một phi tử đã tạo tác nghiệp tội, bịđọa vào ác đạo. Trong văn tự Lương Hoàng Sám ghi chép rấtrõ, Lương Võ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời BảoTrí công đến chủ trì pháp hội siêu độ. Bảo Trí côngchính là hoá thân của Quan Thế Âm Bồ tát, ngài đem phi tửcủa Lương Võ Đế từ ác đạo siêu độ đến trời ĐaoLợi. Vì vậy, người chủ pháp đàn cần có tu, có chứng.Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng dường như khôngcòn. Cả đời chúng tôi không dám làm Phật sự siêu độvì biết mình chưa đủ năng lực, chưa đủ đức năng.

Chúngta hiện nay thường giảng kinh niệm Phật, mặc dù chưa đạttiêu chuẩn như thời xưa, tám giờ giảng kinh, tám giờ niệmPhật nhưng chúng ta thực tập không gián đoạn, cũng thànhtựu chút ít. Mỗi năm đến kỳ thanh minh, trung nguyên, đôngchí, chúng tôi tổ chức pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên.Bài vị mà chúng tôi cúng là bài vị tổ tiên trăm họ, mộtmực bình đẳng. Không phân biệt bài vị lớn, bài vị nhỏbao nhiêu tiền. Phật tử tùy hỷ cúng, hoàn toàn không miễncưỡng. Pháp hội không thu phí cúng dường. Trước đây mỗinăm ba lần pháp hội. Nhưng gần đây, xã hội động loạn,người chết quá nhiều. Mỗi tháng chúng tôi làm tam thờihộ niệm một lần, thành tâm thành ý siêu độ cho tất cảoan hồn chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự phụthêm của đạo tràng. Hy vọng hàng xuất gia cũng như tạigia hiểu được lý luận và sự thật của việc siêu độnày để thực hiện tốt, chỉ cần tận tâm tận lực, thànhtâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng.

Phápsư: HT. TỊNH KHÔNG
Biêndịch: Vọng Tây cư sĩ
Biêntập: PT. Giác Minh Duyên
http://tinhkhongphapngu.com
Ngườigửi bài: Nguyễn Thành Chiến
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/11/2015(Xem: 12865)
Sự đáo vô tâm giai khả lạc Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao Chẳng bận tâm thì lòng an vui Người vô cầu là bậc cao thượng.
24/11/2015(Xem: 7395)
Xứ Ấn giữa tháng 11 đã bắt đầu se lạnh. Nhờ sự trợ duyên từ thiện của quý vị Phật tử thiện hữu, sáng hôm qua (Nov 13 -2015) chúng tôi vừa đến thăm và '' đắp mền '' cho một ngôi làng, nghèo cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 7 cây số. Xin gửi về một vài hình ảnh tường trình thay cho lời tri ân cùng quí vị ân nhân. Buổi phát quà được bảo trợ bởi những Tấm Lòng :
23/11/2015(Xem: 6724)
1, Có bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận; 2, Có bố thí thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho; 3, Có bố thí không thanh tịnh từ người cho cũng không thanh tịnh từ người nhận; 4,Có bố thí thanh tịnh từ người cho cũng thanh tịnh từ người nhận.
22/11/2015(Xem: 11739)
Thiền tập .b ở trường Trung học Phật giáo Pal, Sydney The Mindfulness in Schools được biết đến rộng rãi trên thế giới có tên gọi .b (dot bee), và theo khảo nghiệm của đại học Cambridge và Oxford thì .b mang đến những tác động tích cực cho các em học sinh luyện tập đúng cách. Trinh Nguyễn tìm hiểu chương trình này trong cuộc phỏng vấn với Giáo viên hướng dẫn Bodhidasa Caldwell của trường Pal, và phiên dịch viên Thu Vân. Muốn tìm hiểu thêm về hoạt động 'Mindfulness in Schools', chương trình 'Teach 4 Peace', và buổi dạ tiệc gây quỹ 'Little Buddha', liên lạc với trường Trung học Phật giáo Pal Phone: +612 9755 7778 Email: [email protected] Web: http://pal.nsw.edu.au/
22/11/2015(Xem: 8175)
Khuôn mặt của anh Hardison đã bị hủy hoại kinh hoàng, sau một lần tham gia thực hiện nhiệm vụ chữa cháy, Daily Mail đưa tin. Kể về “ngày định mệnh” cách đây hơn 10 năm, anh cho biết: “Đó chỉ là một ngày bình thường, cũng giống như những đám cháy khác". "Chúng tôi đi vào bên trong để tìm kiếm một phụ nữ đang mắc kẹt”. Hardison bước vào căn nhà cùng với 3 đồng nghiệp khác. Thảm kịch xảy ra khi trần nhà sụp xuống đúng chỗ anh đang đứng. “Mặt nạ đã tan chảy vào khuôn mặt tôi”, anh Hardison kể lại.
22/11/2015(Xem: 8014)
Quân khủng bố IS đặt bom nổ ở Paris, đã giết hại hơn hai trăm người dân vô tội vào ngày thứ sáu 13.11.15. Quân khủng bố IS đã đánh bom nổ tung chiếc máy bay A321 từ Ai Cập đi Nga hôm 31.10.15 khiến 224 hành khách thiệt mạng. Trong năm nay cũng đã hàng loạt những hành động giết người dã man hay phá loại vô lương tâm của IS ở Ankara Thổ Nhĩ Kỳ (10.10), ở Kuwait (26.2), ở Aousse Tenisia (26.6), ở Saudi Arabien, Ai Cập, Yemen, Tunis, ở Mali v.v… Quân khủng bố IS còn đe dọa ở sân banh Hannover Đức quốc, làm trận cầu quốc tế hữu nghị Đức và Hòa Lan hôm thứ ba 17.11.15 phải hủy bỏ. Quân khủng bố đang IS đe dọa liên tục tinh thần người dân Âu châu trong mùa Vọng Giáng Sinh năm nay. Cả với cá nhân tôi, người ít khi đi hội chợ Giáng sinh cũng không đi xem đá banh ở sân vận động nhưng vẫn cứ thấy lòng bất an.
21/11/2015(Xem: 10796)
Ngày 16.11.2015, sau cuộc khủng bố đẫm máu ở Paris, phóng viên Murali Krishnan của „Làn Sóng Đức Quốc - Deutsche Welle“ đã có cuộc phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ấn Độ. Tổ chức Deutsche Welle là một cơ quan truyền thông lớn của nước Đức, thành lập từ năn 1924, phát thanh và hình hơn 30 ngôn ngữ trên toàn thế giới, là thành viên của Đài Truyền Hình ARD. Xin trích dịch toàn bài phỏng vấn từ tiếng Đức từ trang Web của Deutsche Welle.
21/11/2015(Xem: 12597)
Các họa sĩ trên khắp thế giới đã và đang vẽ tranh để cổ vũ Paris đứng lên sau thảm kịch ngày 13/11 vừa qua. Sau sự kiện khủng bố Pháp 13/11 làm 128 người chết và hàng trăm người khác bị thương, nước Pháp- kinh đô ánh sáng, thành phố của tình yêu nay phủ đầy tang tóc. Cả thế giới đều chấn động trước tin một thành phố giữa lòng Châu Âu lại bị tấn công thảm khốc như vậy, đồng thời gửi lời chia buồn tới thân quyến các nạn nhân. Instagram, Twitter, Facebook khắp nơi đều ngập tràn những bức tranh vẽ động viên Paris sớm vượt qua sự việc tang thương lần này.
20/11/2015(Xem: 11987)
Viện trưởng cho biết: “Từ khi hành nghề bác sĩ, tôi chưa từng gặp và điều trị một căn bệnh nào kỳ quái như vậy. Bệnh nhân này trong vòng 3 năm đã phải phẫu thuật tới 5 lần, mỗi lần phẫu thuật tính chất lại nặng hơn so với lần trước, cuối cùng thậm chí đến một tay một chân cũng phải cắt bỏ, chỉ trong phút chốc người bệnh này đã trở thành một người tàn tật với duy nhất một tay một chân. “ Bệnh nhân kỳ lạ này có tên là Văn Lai, có một lần anh bị con rùa (thường được gọi là giáp ngư) cắn đứt một góc ở ngón út bàn tay. Lúc đầu, người này đến bệnh viện để điều trị cơn đau, cho rằng không có vấn đề gì, nhưng sau đó hai tuần, vết thương bắt đầu bị viêm sưng lên. Sau khi tiến hành kiểm tra y tế cho thấy vi trùng đã xâm nhập vào các khớp xương, bắt buộc phải cắt cụt ngón tay út, sau khi anh bị cắt đứt ngón tay út thì chỉ còn lại chín ngón tay.
20/11/2015(Xem: 6715)
Michel Henri Dufour là một người Pháp tu tập theo Phật giáo Theravada, viết và xuất bản nhiều sách trong số đó có quyển "Tự điển Phật giáo Pa-li - Pháp ngữ" (Dictionnaire Pali-Français du Bouddhisme", Eds des Trois Mondes, 1999, 351 tr.) được nhiều người biết đến. Các bài viết của ông thường rất ngắn, cô đọng, chính xác và thiết thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]