Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vấn Thiền Ông Nụ Cười Xuân

26/01/201105:30(Xem: 6554)
Vấn Thiền Ông Nụ Cười Xuân

VẤN THIỀN ÔNG NỤ CƯỜI XUÂN
ThíchTâm Mãn

PhậtGiáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từngphút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai, Đạo của xóa tan bao khổ buồn quá khứ, nên đức Di Đà luôn tiếp dẫn kẻ trầm luân, Đạo là đường đến Niết Bàn tịch tịnh trong hiện tại, nên Đức Thích Tôn Bạc Già Phạm ứng thế độ sanh, Đạo của tương lai không bao giờ mất được, làm niềm hy vọng cho bao người duyên chưa đủ, nên xuânvề đức Đương Lai Di Lặc lại tươi cười chờ những lộc chồi của Phật Pháp ngày mai.

Người học Phật đón xuân cũng có niềm vuikhông kém gì trần thế, cũng bánh, cũng trà và mứt tết ngọt thơm. Thế nhưng Xuân của người học Phật có thêm giọt mật của an lạc và giải thoát,đôi khi cũng cộng vào chút ít hương vị đắng cay. Vui cùng xuân là ý thức sống tỉnh giác trong từng phút giây hiện tại, hương vị cay đắng củacuộc đời là niệm sống cảnh tỉnh ở tương lai, nên gọi là xuân thiền.

Lão Thiền Ông ngồi nhìn những chiếc lá thu cuối cùng rơi trong khoảng chiều vàng nghe man mát, gió nhẹ gọi đôngvề từng giọt khô lạnh, buốt giá đến rồi ư? Đông đến cho mọi ý nguyện như ngưng nghĩ, để khoảng thời gian chậm lại, rồi tính từng ngày để đón xuân sang. Xuân là thế, là nỗi chờ háo hức, là ấm nồng, là mật ngọt của ước mơ, là hy vọng của tương lai cho những điều tốt đẹp, là an lạc trongphút giây đầu không một niệm âu lo.

Thiền thất chiều hạ từng giọt mưa, mưa không ngừng rơi gõ đều trên mái, tí tách từng giọt đều nghe như tiếng mõniệm Kinh. ánh tà dương cuối trời yếu ớt như lặng im dần để bóng tối tràn qua. Bổng ầm một tiếng sấm rồi ánh chớp giăng qua ngang trời làm sáng cả một khoảng trời không, Thiền Ông im lặng ghi nhớ.

Chiều lại một chiều nữa, bên tách trà xông hương hỏi đạo, gió ngoài hiên xào xạt, ao sen trước chùa chỉ còn trơ lại những cành lá vàng khô khắc, từng bước chầm chậm con cò già ngơ ngác tìm lại những gì còn sót lại của hạ vừa sang, sơ xác từng chiếc lá vàng cố níu lại thời gian. Rơi rơi thời gian của thu như không ngừng lại. Thiền Ông im lặng ghi nhớ.

Rồi Đông sang như hiu hắt, cành mai trước sân chùa chỉ còn trơ lại những cành già da dẽ sần sùi im đậm nét hình hài cát bụi thời gian. Thiền Ông đứng trước hoa rồi nhìn mình chẳngkhác gốc mai già là mấy, tóc dã điểm sương chân chùn gối mõi, trên thânthêm một chiếc áo lạnh dày để chống chọi cùng khí lạnh chiều đông. Một lần nữa Thiền Ông im lặng ghi nhớ.

maivang-01012310Tiếng chuông khuya vang lên, Lão Thiền Ông đã ngồi trước bàn Phật, lò trầm hương một nén, khói nhẹ nhàng bay bay, ánh sáng của ngọn đèn khuya lập loè phá tan bóng đêm cô lạnh, ThiềnÔng nhìn Phật tượng, Phật tượng nhìn Thiền Ông, cả hai bỗng nhiên như là một, tượng hay là ông, ông hay là tượng có gì đâu sai khác, miên mangvới niềm diệu chợt Thiền Ông bỗng giật mình, nắng váng từng vệt nhỏ, soi sáng cả Thiền đường, làng gió xuân âm ấm, thổi ngang trước cửa chùa,lòng nghe từng giọt nhẹ làm ấm áp cõi lòng, nhìn ra trước sân mai vàng đả nở rộ, giọt sương cuối cùng đọng trên lá sen đã bắt đầu khô lại, ngộ rồi. Vạn Hạnh Thiền Ông đáp xuân một lời Thiền:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậmvận thạnh suy vô bố úy
Thạnh suy như lộ thảo đầu phô
“Thân người ánh chớp, có không hạ mưa chiều.
Cỏ cây xuân tươi tốt, thu qua lại rụng rời,
Cuộc đời thạnh suy đến, có gì sợ ai ơi,
Chẳng khác chi giọt nước, khô trên ngọn cỏ thôi.”

Không biết từ bao giờ xuân trong cửa Thiền luôn là niềm háo hức, đón xuân, chúc xuân, xuân thiền, xuân an lạc, xuân Di Lặc.v.v… vô số các cụm từ chỉ cho xuân, như làm cho xuân thêm niềm vui mới, như ấm lại cảnh thiền qua một khoảng trời đông. Ánh xuân rơi nhẹ trước sân chùa làm cho biết bao Thiền Lâm lão nạp phải thốtlời tán thán.

Gốc mai trước sân Phương Trượng theo từng đợt gió đông về cây cành gần như trụi lá, tiểu đồng quét những chiếc lá cuối mùa để chuẩn bị đón xuân sang, bâng quơ rồi lại bâng quơ tiểu nghĩ hoài không thấu, hoa Mai đâu hết rồi? bao giờ hoa nở lại, quéttới rồi lại lui, lá cũng như tiểu không biết ngày nào lại đâm chồi trở lại, Tiểu lại bạch thầy hoa Mai bao giờ nở? Để chén trà xuống, Thiền Ôngim lặng mĩm cười.

Sáng nay sân chùa lại vang tiếng chổi, tiếng sạo xạc cũng như thường ngày, trong Trượng thất Thiền Ông nghe được tiếng quét đều như nhẹ và nhanh hơn, bổng có tiếng reo: “hoa Mai đãnở” tiểu lại chạy đến bạch thầy nụ mai vàng đã hé nở sáng nay. Thiền Ông vấn tiểu: “sao không mặc áo ấm” chợt Thiền Ông im lặng mĩm cười, xuân đã đến rồi đây.

Tết này Thiền Ông không nghe tiếng chú tiểu reo mừng khi thấy mai vàng nở nữa, gió xuân từng đợt thổi vào sân chùa làm lay động những cánh mai xuân, nắng xuân vàng ươm soi sáng cả một góc thiền đường, ngoài ô cửa sổ con chim họa mi đang líu lo ca hát, tiếng con cá dưới ao sen quẩy đuôi chào buổi sáng, Thiền Ông chợt thấy bóng dáng của mình ẩn hiện trong làng nước trong xanh. Đã lâu không còn bận tâm với bóng hình mình nữa, nay nó bổng ẩn hiện, nếp thời gian in hình trên diện mục, tóc đã điểm màu trắng xóa bản lai, Thiền Ông ngắm nhìn bổn lai diện mục của một cuộc đời “Vân Thủy Tam Thiên” .

Thiền tư, Tức niệm: “Bạch Thầy” tiếng ainghe như thân quen, kéo những niệm đầu quay về với hiện tại, quỳ trước mặt Thiền Ông một Tăng tướng trang nghiêm, chăm chú nhìn một lần nữa người nhận ra rồi “chú tiểu mừng Mai nở” thoát đã bao nhiêu tuế nguyệt mà con đã lớn chừng này, chả trách ta đã là Lão Tăng bạch phát. Tăng vấnThiền Ông “Sanh tử sự đại” Ông đáp Tăng rằng: “tứ tướng giai không” .Mãn Giác Thiền Ông như nhận được quà tết, Người cảm ơn xuân bằng mấy vận thiền thơ:

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá ,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
“Xuân bỏ đi hoa còn đâu nữa,
Nay xuân về từng đóa nở vàng tươi.
Việc đời qua trước mắt,
thoáng chốc tóc bạc rồi.
Đừng lo xuân tàn hoa rụng hết
sân chùa đêm vắng, cành mai nở vàng.”

Thích Tâm Mãn
ChùaMinh Thành Pleiku

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2011(Xem: 7790)
Ở đây một trong những người thầy vĩ đại của thời đại chúng ta đặc biệt nói chuyện cùng những người trẻ và trình bày một triết lý thực tế của sự giáo dục không liên quan gì đến những cống hiến hiện nay trong hầu hết những trường học và đại học của chúng ta. Krishnamurti phơi bày những gốc rễ của sợ hãi và loại bỏ những thói quen được thiết lập sâu thẳm của truyền thống, mô phỏng, và thành kiến.
04/10/2011(Xem: 7456)
Tiếp theo, chúng ta nói về sự bố thí. Phía trước tôi đã nói đến có một lần tôi ở trường học, hôm khánh thành toà lầu Học viện Thương nghiệp, tôi cũng tham gia buổi lễ khai mạc. Trong buổi lễ, nhà trường có mời một vị giáo thọ người Mỹ nổi tiếng của Học viện Thương nghiệp đến diễn giảng. Sau khi tôi nghe rồi, tôi có cảm khái rất sâu sắc. Bởi vì ngay lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái nói với hiểu trưởng, tôi cười đùa mà nói với ông rằng giáo trình của Học viện Thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy.
02/10/2011(Xem: 8472)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
25/09/2011(Xem: 9313)
Chúng ta không cần đi đâu xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kênhững sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác...
25/09/2011(Xem: 8881)
Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.
24/09/2011(Xem: 7100)
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
21/09/2011(Xem: 16963)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 7432)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng làđiều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
15/09/2011(Xem: 9553)
* Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.
15/09/2011(Xem: 8351)
Ngài Achaan Chah là một trong những vị đại sư nổi tiếng của đất nước chùa tháp Thái Lan. Ngài duy trì lối tu học truyền thống như thời của Đức Phật còn tại thế. Sự minh triết và đức hạnh của một vị thiền sư đã làm cho danh tiếng của Ngài vươn xa tới nhiều châu lục. Hiện nay, pháp thiền của Ngài - Thiền Minh sát tuệ - đã lan tỏa mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm A Still Forest Pool(Tâm Tĩnh Lặng), do hai môn đệ người Mỹ của Ngài là Jack Kornfield và Paul Breiter đã kết tập từ những bài giảng của Ngài và được xuất bản bằng tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1985. Mặc dù tác phẩm đã ra đời trên hai mươi năm, nhưng trí tuệ chân thực vẫn luôn tồn tại mãi với thời gian. Bài giảng sau đây, người dịch trích từ tác phẩm trên và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]