Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo trong quan hệ với chính quyền

01/02/201312:22(Xem: 8337)
Phật giáo trong quan hệ với chính quyền

PHẬT GIÁO TRONG QUAN HỆ VỚI CHÍNH QUYỀN
trường hợp vua A Xà Thế
Minh Thạnh

Phat Giao Quan He Voi Chinh QuyenMời bạn đọc tiếp tục cuộc thảo luận về quan hệ Phật giáo với chính quyền. Theo tôi, đây là đề tài có ích, vì nó quan trọng với Phật giáo, giúp người Phật tử có quan điểm rõ ràng về một vấn đề thiết yếu.

Nói đây là vấn đề thiết yếu, vì nó dường như chưa đi đến một kết luận rõ ràng, dứt khoát trong đạo Phật. Chính vì vậy, nên mới có các ý kiến chưathống nhất, cần phải thảo luận thêm.

Đây là chúng ta đang bàn luận về nội dung có liên quan đến Phật pháp, nên không phải là hý luận. Hý luận là bàn luận những điều vô ích, không cần thiết cho việc tu học.

Để tránh việc hý luận, ở đây chúng ta liên hệ vấn đề với một trường hợp Phật giáo quan hệ với chính quyền, được kinh sách ghi chép lại.

Đó là trường hợp với vua A Xà Thế.

Một trong những ý kiến bàn luận, là liệu từ phía Phật giáo có cần thẩm định, đánh giá chính quyền trước khi xây dựng quan hệ tốt. Đây là vấn đềkhá xác đáng, khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Đức Phật không dạy chúng ta trực tiếp về điều này (từ phía Phật giáo đánh giá trực tiếp phẩm chất của chính quyền), nhưng trong cuộc đời Đức Phật,có những sự kiện mà từ đó, chúng ta có thể rút ra những lời dạy gián tiếp. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến trường hợp vua A Xà Thế.

AXà Thế (Ajatasatru) là một người nắm chính quyền đương thời Đức Phật. Vương triều A Xà Thế đã có những quan hệ trực tiếp đối với Đức Phật và giáo đoàn, đã phát sinh ra nhiều sự kiện, giải quyết nhiều vấn đề, mà qua đó chúng ta có thể rút ra bài học cho quan điểm về mối liên hệ giữa Phật giáo với chính quyền.

Nhữngý kiến bình luận của chúng tôi là chủ quan, nhưng sự kiện lịch sử là sựthật khách quan và cách giải quyết của Đức Phật cũng thể hiện quan điểmrõ ràng, rạch ròi. Chúng tôi nghĩ rằng, hiển nhiên, quan điểm luôn có một mối quan hệ tốt với chính quyền, luôn tạo cơ hội thuận lợi cho một chính quyền hộ pháp là đúng theo những cách thức mà Đức Phật đã theođó mà giải quyết vấn đề trong quan hệ với vua A Xà Thế.

Vương triều A Xà Thế

A Xà Thế nắm chính quyền ở Đông Bắc Ấn Độ, trong một châu thổ rộng lớn cóđược do xâm chiếm, gọi là nước Ma Kiệt Đà (Magadha), thời gian từ 492 tr CN đến 460 tr CN. Câu chuyện về vua A Xà Thế được biên chép trong Kinh Phật và Kinh của đạo Jain.

Việc nắm chính quyền của vua A Xà Thế là bất minh. Trong việc này, vua A Xà Thế là tội phạm giết cha (vua Tần Bà Sa La) đoạt ngôi vua, trong một cách hành xử tàn ác. A Xà Thế đã giam cha mình, bỏ đói để giết cha. Chỉ xét về mặt lên ngôi, A Xà Thế là một tội phạm.

Công việc nội trị và ngoại giao của vua A Xà Thế có nhiều vấn đề. A Xà Thế huy động toàn lực quốc gia vào chiến tranh xâm lược. Việc theo đuổi chiến tranh xâm lăng đối với vua A Xà Thế là trường trực. Những cuộc chiến tranh liên miên đã khiến cho vua A Xà Thế chinh phục đến 36 vương quốc. Theo Wikipedia, vương quốc Magadha của A Xà Thế trải dài qua nhiềubang hiện nay của Ấn Độ như Bihar, Chandigarh, Hyryana, Uttaran Chal, Himachal Pradesh, Dehli, Ulta Pradesh, một phần Madhya Pradesh, Chattsgarth, Jarkhand, Tây Bengal và Nepal. Sự rộng lớn của lãnh thổ khiến chúng ta hình dung quá trình xâm lược của triều đại A Xà Thế có qui mô đến như thế nào.

Ngườidân ở một vương quốc luôn theo đuổi mục tiêu xâm lược không thể sống trong cảnh thanh bình, thịnh trị. Điều tất yếu là chính sách đối nội không tránh khỏi vấn đề. Chiến tranh xâm lược đương nhiên hao tiền, tốn của, tổn thất sinh mạng, đất nước kiệt quệ.

Đối với Phật giáo, vua A Xà Thế ủng hộ Đề Bà Đạt Đa, một tăng sĩ cầm đầu việc ly khai, chống phá, thậm chí ám hại Đức Phật. Là người ủng hộ mạnh mẽ Đề Bà Đạt Đa, A Xà Thế đã gián tiếp gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với Đức Phật và tăng chúng.

Trong một bối cảnh như vậy, mâu thuẫn giữa Đức Phật và tăng đoàn đối với vương triều A Xà Thế đã phát sinh trong thực tế. Đức Phật đã giải quyết mâu thuẫn này như thế nào?

Khônghướng đến tình trạng gia tăng mâu thuẫn, dẫn tới đối kháng trực tiếp, Đức Phật vừa không can thiệp vào chính sự của vương quốc, vừa duy trì khả năng có thể thực hiện được việc hóa độ đối với người đứng đầu vương triều.

Quan hệ từ phía Phật giáo

Quan hệ của Đức Phật đối với vương triều A Xà Thế vừa thể hiện tính chất xuất thế của đạo Phật, lại vừa thể hiện tính chất tích cực của đạo Phật.

Là đạo thoát tục, Phật giáo không tác động vào vương triều như một lực lượng chính trị xã hội.

Giữvai trò định hướng đạo đức, Đức Phật, trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường bộ kinh, cũng đã đánh giá cao những tiêu chuẩn đạo đức mà nước Bạt Kỳ áp dụng, để khuyên bảo vua A Xà Thế đừng xâm lăng. Tuy nhiên, đâylà lời khuyến cáo, không phải sự cản ngăn trực tiếp vào chính sách của vua A Xà Thế.

Trên hết trong vai trò định hướng đạo đức, là mục tiêu hóa độ vua A Xà Thế.

Ảnhhưởng của Đức Phật đối với quan lại của vương triều A Xà Thế là môi trường cho việc hóa độ. Điều này, giải thích tại sao vị cận thần Kỳ Bà đã xúc tiến ngay cuộc gặp giữa Đức Phật và vua A Xà Thế (Kinh Samannaphala, Sa Môn Quả, Trường bộ kinh)

Vua A Xà Thế trở thành Phật tử. Vương triều A Xà Thế trở thành một vương triều hộ pháp. A Xà Thế đã có những đóng góp trong vai trò Hộ pháp vươngđối với Đại hội Kết tập kinh điển lần thứ I.

Nhưvậy, vấn đề chúng tôi muốn ghi nhận đã theo tiến trình ghi nhận như trên mà định hình. Cốt lõi của đạo Phật là ở chỗ hóa độ, hoằng hóa, chuyển hóa. Đó là mục tiêu trên hết. Quan hệ với những vương triều, với Đức Phật, vẫn tạo môi trường tốt cho việc hóa độ.

Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”.

Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại.

Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi.

Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.


Minh Thạnh
(Phật Tử Việt Nam)

Bài đọc thêm:

A-xà-thế
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )

250px-MagadhaA-xà-thế(zh. 阿闍世, sa. ajātaśatru, pi. ajātasattu, bo. ma skyes dgraམ་སྐྱེས་དགྲ་) là Vua xứ Ma-kiệt-đàmiền Bắc Ấn Độ(sa., pi. magadha), người trị vì trong 8 năm cuối cùng tại thế của Phật Thích-ca Mâu-nivà 22 năm kế tiếp (khoảng 491- 461trước Công nguyên). Ông là người giết hại vua cha Tần-bà-sa-la(sa., pi. bimbisāra) và cùng Đề-bà-đạt-đa(sa., pi. devadatta) định ám hại Đức Phật, nhưng không thành. Cuối cùng ông giác ngộ theo Phật và phụng sự đạo Phật.

Nhân duyên về tên A-xà-thế

Thái tử A-xà-thế có ba cái tên

  • A-xà-thếđược dịch là “Vị sinh oán” (zh. 未生怨) - với ý kết oántrước khi sinh - là kẻ khi sinh ra được tiên đoán sẽ giết cha. A-xà-thếmuốn đoạt quyền quá sớm, cùng với Đề-bà-đạt-đaâm mưu vừa giết Phật vừa giết cha. Âm mưu này bại lộ, vua Tần-bà-sa-la tha tội cho con và giao ngai vàng. A-xà-thế vẫn không yên tâm vì vua chacòn sống, nên đã hạ ngục và bỏ đói vua cha. Thấy Tần-bà-sa-la vẫn vui vẻ A-xà-thế cho người giết vua cha.
  • Bà-la-lưu-chikhi sinh thái tử ra, hoàng hậu Vi-đề-hybồng thái tử đứng trên lầu cao, nghe mấy thầy tu đoán ân oán thái tử như vậy nên bủn rủn tay chân mà đánh rơi thái tử xuống đất hư hết một ngón tay, nên thái tử có thêm tên Bà-la-lưu-chi( người hư một ngón tay).
  • Thiện-kiếnsau đó mọi người trong hoàng tộc thấy ngẫu nhiên thái tử có những cái tên không hay bèn thống nhất gọi một cái tên khác là Thiện-kiến.

Thái tử ngỡ rằng mình chỉ có tên Thiện-kiến nhưng sau khi gặp Đề-bà-đạt-đa, ông này có ý đồ xấu nên kể căn cội hai cái tên kia cho thiện-kiến biết. Từ đó ác nghiệp bắt đầu bùng phát trong hành vi của A-xà-thế.

Nhân quả của A-xà-thế

Nguyên tiền thân A-xà-thế là một vị tu sĩvừa đắc quả tiên, gặp vua Tần-bà-sa-la đi săn thất bại nên trút giận màlỡ tay giết vị tu sĩ này. Quả vị còn thấp kém nên vị tu sĩ phát oán nghiệp mà đầu thai lại trả thù. Tuy nhiên do căn tu còn đó nên cuối cùngcũng được Phật hoá độ.

Về sau, A-xà-thế hỏi ý kiến Phật có nên xâm chiếm nước Bạt-kì(pi. vajjī)hay không, một nước vốn có chính sách dân chủ. Phật cho biết Bạt-kì không bao giờ thua vì dân nước đó rất đoàn kết. Từ đó A-xà-thế coi trọngdân chủ, coi trọng Tăng-giàvà qua đó có phần tỉnh ngộ. Sau khi Phậtnhập Niết-bàn, A-xà-thế lập một thápthờ xá-lợicủa Phật. Ông cũng là người xây dựng một giảng đường lớn trong lần Kết tậpthứ nhất.

Sau khi tại vị 32 năm, ác nghiệp được chấm dứt khi A-xà-thế lại bị con giết và soán ngôi y như mình vậy.

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/06/2014(Xem: 14492)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 19541)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 6900)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20264)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14369)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
06/06/2014(Xem: 26242)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
04/06/2014(Xem: 8538)
Hàm Nguyệt Sơn (Hamwolsan), Cốt Quật Tự (骨 窟 寺-Golgulsa Temple), tọa lạc tại số 304, ấp An Đông (An-dong-ri), Thị trấn Dương Bắc (Yangbuk-myeon), Thành phố Khánh Châu (Gyeonguju-si), tỉnh Khánh Thượng Bắc đạo (Gyeongsangbuk-do) thuộc khu đồi Khánh Bắc (Gyeongbuk), cách nội địa biển Đông ba dặm.
04/06/2014(Xem: 10037)
Các bạn chắc đã đọc rất nhiều lời khuyên của các vĩ nhân, có thể thấy chán. Nhưng tôi vẫn muốn viết về một người, là ông Einstein. Ông Einstein là một trường hợp rất đặc biệt.
02/06/2014(Xem: 11866)
Phật Giáo được thực hành tại nhiều nước Á Đông dưới nhiều hình thức, sự khác biệt là do bởi những tín đồ là con cháu của những người lập nghiệp ban đầu đến từ Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, v.v...Cũng có nhiều người đơn giản tự gọi mình là "Phật tử" và thực hành một số nghi lễ mà họ học được từ cha ông dưới danh nghĩa của tôn giáo này.
02/06/2014(Xem: 10016)
Mùa xuân năm nay, tại Đạo tràng Mai Thôn đã diễn ra Đại giới đàn Cam Lộ Vị, bắt đầu từ ngày 23.05 đến ngày 28.5.2014. Lễ rước giới bổn được tổ chức thật long trọng tại chùa Pháp Vân, xóm Thượng. Dường như đất trời cũng hòa chung niềm vui của tứ chúng Làng Mai trong ngày khai mạc Đại giới đàn. Ngay khi giới bổn được rước vào thiền đường Nước Tĩnh thì trời bổng nhiên đổ mưa. Những giọt nước cam lộ rơi xuống làm cho đất trời và lòng người đều mát mẻ, thanh lương.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]