Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư pháp thuận với câu thơ làm kinh dị sứ thần triều Tống

22/07/201103:30(Xem: 6756)
Sư pháp thuận với câu thơ làm kinh dị sứ thần triều Tống

SƯ PHÁP THUẬN
VỚI CÂU THƠ
LÀM KINH DỊ SỨ THẦN TRIỀU TỐNG
Trần Đình Sơn

su-doSuốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.

Tiếc thay người anh hùng vạn thắng không lường được cái họa bên trong cung tường. Năm 979 (Kỷ Mão) vua Đinh Tiên Hoàng và thái tử cận thần Đỗ Thích phản bội ám sát. Thừa cơ nước Việt phân hóa, bất ổn triều Tống cử binh sang xâm lăng. Trước nguy cơ nước mất nhà tan, thái hậu Dương Văn Nga (1) quyết định mang hoàng bào, ấn kiếm truyền trao quốc cho thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế (980-Canh Thìn) để thống lĩnh binh dân chống giặc giữ nước. Chiến thắng ngoại xâm xong, vua Lê Đại Hành gặp nhiều khó khăn trong việc nội trị, ngoại giao với lân bang, rất may đương thời có thiền sư Pháp Thuận hết lòng hướng dẫn phò tá.

Sư họ Đỗ, xuất gia từ nhỏ thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư đến trụ trì giáo hóa đồ chúng ở chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ái (2). Vua Đại Hành hết lòng ngưỡng mộ, thường thỉnh sư vào triều tham khảo việc nước và giao phó soạn thảo văn từ ban giao với Trung Quốc. Sách: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Thiền Uyển Tập Anh ghi lại: năm 987 (Đinh Hợi) niên hiệu Thiên phúc thứ 8, triều Tống cử quốc tử giám bác sĩ Lý Giác sang sử nước ta. Để có người đủ trình độ theo dõi ứng đối với sứ thần, vua Lê nhờ sư Pháp Thuận dã làm viên quan coi bến đò ở sông Sách (3) đợi đón tiếp sứ Tống, lúc thuyền qua sông nhìn thấy cảnh vật tươi đẹp, giữa dòng có hai con ngỗng bơi lội, Lý Giác cao hứng tức cảnh ngâm:

Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha

Bỗng Lý Giác giật mình nhìn qua lại khi nghe ông lão cheo đò cao giọng ngâm tiếp:

Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba

Dịch:

Song song ngỗng một đôi
Ngửa mặt ngó lên trời
Long trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi. (4)

Câu chuyện đón tiếp sư Tống được sử sách ghi chép truyền lại hơn ngàn năm. Gần đây giáo sư Lê Mạnh Thát công bố công trình nghiêm cứu về Thiền Uyển Tập Anh có biết bài thơ trên là một nhuận sắc khác tinh tế của bài thơ vịnh nga mà Lạc Tân Vương làm khi mới lên mười tuổi và toàn đường thi tập 2 quyển 79 tờ 864 chép:

Nga nga nga
Khúc hạc hướng thiên ca
Bạch mao phù lục thủy
Hồng chưởng bát thanh ba. (5)

Dịch:

Nga, nga, nga
Ngưỡng cổ kêu ngó trời
Lông trắng trôi nước biếc
Sống xanh chân hồng bơi. (6)

Đầu thu năm 2000 có dịp ra Hà Nội đến tham quan Viện bảo tàng Lịch Sử Việt Nam chúng tôi sửng sờ và tràn đầy xúc động khi đập mắt đứng ngắm chiếc dĩa sứ cổ thể hiện lại câu chuyện trên. Trong lòng dĩa, bờ bên trái vẻ cảnh núi non cao ngất tầng mây, dưới cội tùng già có một giang đình ven bờ sông. Bên phải đá núi chập chồng, một gốc lệ liễu buông lơi cành lá. Giữa dòng có chiếc thuyền chở ông quan ngồi trước mui, ông lão cầm chèo đàng sau hướng vào giang đình. Xa xa hai con ngỗng nhởn nhơ cùng sống nước. Trên cảnh ghi bài ngũ ngôn tứ tuyệt “Nga nga lưỡng nag nga...”dưới đáy dĩa ghi rõ “Hồng Đức Niên Chế”(???), tức niên hiệu của vua Lê Thánh Tông từ năm 1470-1497.

Viện BTLSHN xếp dĩa này thuộc loại đồ sứ hoa lam triều Nguyễn, thế kỷ XIX, tuy nhiên theo chúng tôi xem xét họa tiết, men màu và so sánh với các tiêu bản khác thì chiếc dĩa này có thể được đặt làm ở Trung Quốc khoảng triều Cảnh Hưng (1740-1786), tương ứng triền Kiền Long nhà Thanh (1736-1795). Giai đoạn này thì mỹ thuật, kỷ thuật đồ sứ Trung Quốc mới đạt tới đỉnh cao tuyệt vời như thế. Càng ngắm nhìn chiếc dĩa càng cảm thông với cổ nhân. Câu chuyện trong sử sách ghi chép thật sự diễn ra hay chỉ là giai thoại văn chương ngoại giao? Dĩa sứ được đặt làm khoảng thời “Cảnh Hưng” nhưng tại sao ghi “Hồng Đức Niên Chế”? những việc đó chắc chắn do dụng ý của người xưa mới nói lên niềm tự hào của văn hoá và tinh thần cương quyết giữ vững nền độc lập, tự chủ của dân tộc đối với tư tưởng bá quyền của phương Bắc.

Gần 300 năm qua với bao biến động lịch sử kinh hoàng, cảnh nội chiến ngoại xâm, khiến cho kinh thành Thăng Long mấy độ đã nát vàng phai. Thế mà chiếc dĩa sứ vẫn còn nguyên lành như viên ngọc bích không tì vết, để hậu thế có dịp mà chiêm ngưỡng cảnh “Thuận sư thi cú, Tống sứ kinh dị” (7) giữa lòng thủ đô Hà Nội ngày nay.

CHÚ THÍCH:

1. Dương Vân Nga: Nguyên là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng mẹ của Lê Vương Đình Toàn. Sau về với vua Lê Đại Hành được lập làm Đại Thắng minh hoàng đế.
2. Hiện chưa khảo cứu được chính xác.
3. Sách giang tức con sông ở nam Sách là một khúc sông Thương ở hạ lưu. Chức quan coi bến đò gọi là Tân lại hay Giang lệnh.
4. Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo sử Lược (Hà Nội, Tân Việt, 1944) tr.133.
5. Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Thiền Uyển Tập Anh (TP. HCM: VNCPGVN, 1999) tr.516.
6. Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Tập 2 (TP. HCM: VNCPGVN, 2001), tr.492.
7. Câu của lê Quý Đôn tán dương sư Pháp Thuận trong Kiến Văn Tiểu Lục 9 tờ 14a10 (Theo Lê Mạnh Thát-LSPGVN), tr.493.


(Trung Tâm Văn Hóa Liễu Quán Huế)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2014(Xem: 6836)
Tâm hay trách móc, hay hờn tủi, tâm đó sẽ làm cho chúng ta khổ đau. Không sợ già, không sợ chết, chỉ sợ chúng ta không có trí tuệ, chúng ta không biết tu tập, nên chúng ta không có khả năng để vẽ đời sống của chúng ta, cái dáng dấp đẹp đẽ của chúng ta trong tương lai. Chúng ta phóng sanh loài khác chính là phóng sanh cho chính chúng ta, chúng ta cứu giúp sự sống của người khác chính là cứu giúp sự sống của chính chúng ta. Chúng ta có thể tiếp xúc, cảm nhận được hạnh phúc và an lạc ở bất cứ thời gian và không gian nào. Khi chúng ta ý thức rõ về sự sống, chúng ta biết gạn lọc tất cả những cái gì làm cho sự sống của chúng ta bị cáu bẩn, thì sự thanh trong của cuộc sống tự nó sẽ hiện ra.
07/08/2014(Xem: 15287)
Chưa ai thực thụ hay đã “định cư„ Cõi Cực Lạc của Đức A Di Đà để biết thế nào rồi...hiện hồn về kể cho chúng ta nghe. Thế nhưng bấy lâu, dựa theo kinh sách và óc tưởng tượng của mọi người đều phác họa một cảnh giới cực lạc đầy hoa thơm cỏ lạ, suối róc rách reo, chim muông ca hót, mây lững lờ trôi, gió vi vu thổi, rừng cây sum sê ăn trái, núi bốc hương thơm, sông hồ cá lững lờ lội, và cả châu báu kim cương, mã não, hổ phách…đầy đường đầy nhà muốn lúc nào cũng có…!
06/08/2014(Xem: 17179)
Vu Lan báo hiếu lại về, Khắp nơi phật tử nhất tề dâng hương. Người người già trẻ bốn phương, Lên cầu cho mẹ, mến thương hết lời. Cửa chùa mở rộng đón mời, Hỏi thăm hiền mẫu trên đời còn không, Mẹ còn, chùa lấy hoa hồng, Cài lên vạt áo, cho lòng thêm tươi. Người nào mẹ đã qua đời, Thì cài hoa trắng, gửi lời nhớ thương.
05/08/2014(Xem: 7072)
Bạn nghe tiêu đề và thấy vô lý quá đúng không. Tôi cũng thế, nếu tôi chỉ đọc tên bài viết này thì cũng giật mình vì cho rằng có vấn đề. Rồi thấy buồn cười. Hằng ngày chúng ta suy nghĩ, nói năng, làm việc liên tục không ngừng nghỉ. Từ sáng sớm đến đêm khuya. Ngay cả khi ngủ chúng ta cũng không nghỉ. Hằng ngày, khi chúng ta làm việc mà nếu tâm vẫn trong sạch, không mọc rễ, thì khi đó ta đã đưa tâm về nhà. I have a rrived. I am home. Ta đã về. Ta đã tới. Nhưng nếu ta làm cái gì đó rồi tâm ta mọc rễ thì ta đã đưa tâm đi xa nhà. I am far from my home. Ta đã đi xa nhà mất rồi, thật rồi.
01/08/2014(Xem: 9286)
Bạn bè tôi thường hay đùa nhau nói: giày dép còn có số huống chi con người ta. Tôi biết, đó là bạn bè đùa vui thôi! Cuộc đời tôi thì có gắn bó nhiều với những câu chuyện về giày dép. Có bạn còn nói: cái mũ người ta đội trên đầu mới đáng nói hơn, nói chi lòng vòng mấy cái chuyện giày chuyện dép, chỉ là món đồ dùng người ta mượn để đạp dưới đất mà đi. Thì cũng có sao đâu! Cái mũ đội trên đầu thấy „cao thượng“ nhưng lúc lỡ quên mang theo thì mình có thể chui vào đâu đó tránh nắng hay dùng khăn chùm đầu cũng đỡ lạnh. Nhưng giày dép mà vắng mặt thì… bạn ơi, có hơi chật vật đấy! Sỏi đá, gai góc vào chân thì chỉ có khóc thôi. Phải vậy không? Ai từng gặp cảnh ấy mới biết. Bởi nghĩ thế nên mấy cái chuyện giày chuyện dép ấy nó cứ đeo đuổi theo tôi nhiều năm, đến hôm nay mới có dịp kể ra đây.
31/07/2014(Xem: 7415)
Máy bay cất cánh từ phi trường Kastrup, Copenhagen lúc 20 giờ 30 tối, trong đầu tôi vẫn còn nỗi lo là mình đến phi trường Geneva lúc 22 giờ 25 rồi có gặp được các học viên của Khóa Tu Học Phật Pháp, hay có ai đến đón chúng tôi không? Như Thầy Quảng Hiền đã trấn an không?
30/07/2014(Xem: 6886)
‘Bạch Thế Tôn, mới rồi, một gia chủ giàu có ở thành Savatthi này qua đời mà không có con thừa kế. Con vừa cho chuyển tài sản của ông ta vào kho của hoàng cung; những tám triệu đồng tiền bằng vàng chưa kể số tiền bằng bạc. Mặc dù là một gia chủ giàu có, thế nhưng bữa ăn hằng ngày của ông ta thì chỉ là cháo nấu bằng gạo nát với bánh làm bằng đậu khô; y phục vỏn vẹn chỉ có ba mảnh vải dệt bằng sợi gai; phương tiện di chuyển là chiếc xe bò gãy gọng nóc lợp bằng rơm’.
29/07/2014(Xem: 8856)
Thông thường làm từ thiện, ai cũng liên kết với lòng Từ bi. Thấy ai làm từ thiện đều nghĩ người đó có tâm từ. Thật ra, cùng một động thái nhưng nội hàm có nhiều sai biệt. Có người vì xu hướng mà làm từ thiện, có người vì ham danh mà làm từ thiện, có người chạy theo phong trào mà làm từ thiện...những trường hợp nầy thiết nghĩ không cần phải đề cập, cái cần đề cập là những người thực tâm vì thương xót đối tượng mà làm từ thiện. Trường hợp nầy hoàn toàn đồng ý đây là tâm tốt, nhưng tốt đối với người bình thường trong xã hội, riêng với một Phật tử dù xuất gia hay tại gia, việc hành thiện còn phải xây dựng trên nền tảng tâm Bồ đề.
29/07/2014(Xem: 8807)
Tất cả chúng ta đều có thể bị bệnh. Một khi chúng ta được sinh ra trong vòng luân hồi sinh tử với thân thể này thì có nghĩa là chúng ta đã chịu sự ảnh hưởng của những phiền não và nghiệp chướng, cho nên bị ốm đau là điều không thể nào tránh khỏi. Đó cũng chính là bản chất của cơ thể chúng ta - thân thể này sẽ già đi và sẽ bị bệnh. Ma-ha Tăng kỳ luật, quyển 28, Đại chính tân tu Đại tạng kinh, tập 22, trang 455b)
24/07/2014(Xem: 10645)
Hôm nay chúng tôi xin nói đề tài Ba điều căn bản của người tu Phật. Vì chúng ta tu Phật phải biết thế nào là cội gốc, thế nào là ngọn ngành. Ba điều này tôi căn cứ theo kinh Pháp Hoa, nhắc lại cho quí vị nhớ và thực hành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]