Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Lại Chiếc Áo Giải Thoát

26/11/201123:58(Xem: 7095)
Tìm Lại Chiếc Áo Giải Thoát
tusilebai_1
TÌM LẠI CHIẾC ÁO GIẢI THOÁT

Thích Hạnh Thu

Ngày nay có nhiều người cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy có vị tu sĩ mang giày da, mặc áo đời thường, thậm chí ra vào chùa ngang nhiên, tăng tục khó phân. Lại nữa, y phục trong chùa lại lắm màu lắm vẻ, chất liệu thì mỏng dính, thướt tha chảy dài, gấm vóc lụa là thay nhau trình diễn. Nhìn ra có vẻ mất trang nghiêm, xuất gia lánh xa bụi trần chỉ cần 3 y và 1 bình bát sao đành chịu vùi vào thế tục. Khiến người than trách.

Người xuất gia tu hành ăn mặc giản dị, sống cuộc sống bình thường, tuy Đức Phật vì phương tiện mà mùa đông cho thêm áo, nhưng không phải là lí do để mưu cầu tích trữ. Đức Phật và chúng tăng ngày xưa chỉ mặc y phấn tảo. Y phấn tảo là sự tượng trưng của đời sống thanh đạm không tham cầu của một người tu học. Càng về sau Đức Phật tuy cho phép Tăng sĩ nhận đồ cúng dường của tín chủ, nhưng xác định rõ ràng không được mặc đồ xa hoa trân quí.

Có một lần, Đức Phật đi từ thành Xá Vệ đến thành Vệ Xá Li, trên đường Ngài nhìn thấy một số đệ tử vác từng bao áo quần y hậu, Ngài bèn nghĩ: “Những người ngu này dùng hết sức lực chỉ cho việc mặc.” Do vậy, Đức Phật cấm chỉ tì kheo tích trữ nhiều y áo, và quy định mỗi người chỉ có thể giữ 3 y, nếu có Phật tử nào cúng thêm, thì vị tỉ kheo đó phải đem cúng dường lại cho vị khác có y bị rách hoặc chưa đủ y.

Lần kết tập kinh điển thứ nhất, khi tôn giả A Nan thay mặt 500 vị tỉ kheo tiếp nhận 500 bộ y do những cung nữ của vua Ưu Điền thành tâm cúng dường. Vua Ưu Điền sau nghe sự việc này cảm thấy lạ, thế nhưng vẫn nói đùa: “Nhận nhiều y như thế tôn giả A Nan không phải thành một người buôn áo quần sao.” Thấy hiếu kì, nhà vua bèn đến gặp tôn giả A Nan, đồng thời thị sát xem 500 bộ y chạy đi đâu. Sau đây là cuộc đối thoại giữa vua và tôn giả A Nan.

Tôn giả A Nan nói: “Tâu Đại Vương, 500 bộ y đã chuyển đến cho 500 vị tì kheo có y bị rách.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn 500 bộ y rách kia làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm ra trải giường.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những ra trải giường cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm gối.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, những chiếc gối cũ kia làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm đệm ngồi.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những đệm ngồi cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm khăn lau chân."

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những khăn lau chân cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm khăn lau nhà."

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những khăn lau nhà cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, những chiếc khăn lau nhà sau khi đã hư mục thì dùng để trộn với đất bùn làm nền nhà."

Vua Ưu Điền sau khi nhận thấy các tỉ kheo không lãng phí đồ vật, nhà vua không những lấy làm kính phục mà còn phát tâm cúng thêm 500 bộ y nữa cho tôn giả A Nan và tăng chúng.

Sự tôn quí của Tăng chúng đó là khi họ có thể như pháp, như luật thực hành lời Đức Phật đã dạy, do đó mà toả ra cái đức của người tu hành. Thử nghĩ xem một người xuất gia mặc một bộ y có chất liệu sang trọng làm hoa mắt người đời, lời nói thì thô tháo, nhiễm thói đời thường, thích thú hư vinh, những người như thế thì nên xem như thế nào? Còn khi nhìn thấy những bức tranh ngày xưa của các vị cao tăng với y áo giản dị, nhưng toát lên thiền vị giải thoát, chỉ cần nhìn thôi cũng thấy an lạc. Nhìn những hình ảnh đó của những vị cao tăng chỉ mới gần đây thôi khiến cho chúng ta cảm thấy thân thiết tôn kính. Tại sao nhìn thấy những vị tăng ngày nay mặc những bộ y phục với chất liệu xa hoa, ngược lại nhìn thấy giả tạo khó coi.

Là bậc xuất trần thượng sĩ luôn tự xem mình là người thiểu dục tri túc, không màn danh lợi, chuyên tâm tu học thì càng phải vật chất bên ngoài mà cần cầu quán sát nội tâm bên trong. Tăng sĩ cần phải có khí chất chứ không cần vật chất để trau chuốt, thích y áo và sự xa hoa bên ngoài làm sao mà khai mở cho được vô minh. Y áo mũ mảo đi với má phấn hài son cũng không thể nào che đậy được thân uế bẩn, làm sao xả bỏ các duyên, để đạt đến an tường tự tại.

Có một người bạn (vong viên chi hữu) nói với tôi rằng: “Tôi có một tình cảm tốt với Phật giáo là từ lúc mà tôi trông thấy một vị tu sĩ với khí chất khác thường, lúc đó chỉ đứng xa mà nhìn vị ấy mặc trên mình một chiếc áo nhà chùa bằng vải thô, nhưng cái thần tình an nhiên tự tại, trang nghiêm đỉnh đạt khiến tôi lấy làm mến mộ. Khí chất siêu thoát đó thì người hiện đại không so sánh được, chỉ thấy tính tháo động, hoảng hốt, bất an hiện rõ. Thế rồi từ đó tôi càng tiếp xúc với Phật giáo, càng học càng thấy sáng. Phật giáo làm cho đời sống của tôi có nhiều thay đổi tốt đẹp.” Người ấy vừa nói vừa biểu hiện những cử chỉ của một bậc cao sĩ, nhìn thấy dáng điệu chân thành thật đáng kính trọng.

Đúng như thế, thấy được thân giáo cũng có thể cho thấy điều này, ngày xưa khi tôn giả Xá-lợi-phất là một ngoại đạo hiểu nhiều biết rộng, nhưng khi nhìn thấy tì kheo Mã Thắng với phong cách uy nghi đỉnh đạt mà phát tâm quy y Phật. Có rất nhiều người phát tâm quy y với Phật giáo không phải ban đầu tiếp xúc với sự đỉnh đạt đó hay sao? Nhưng nay nhìn vào cái xa hoa lộng lẫy, hài đỏ mũ hoa thì lại như bị chọc tròng mắt.

Người đời tiếp nhận người xuất gia cũng không phải qua áo quần quí giá, mà chỉ là qua cung cách siêu phàm thoát tục. Các vị cao tăng xưa nay đều biểu hiện cung cách không hèn không ngạo, không sợ sệt khiến cho các vua chúa và cả người bất lương quy kính. Một hành giả với cốt cách thanh cao, tuy chỉ mang dày cỏ, mặc áo vải thô cũng có thể toả ra sự tôn quí.

Người tu hành mặc y phục vải thô càng dễ chịu, thể hiện tính thiểu dục và đơn giản, vải thô dễ thoáng khí và mát, có lợi cho việc ngồi thiền tụng kinh. Ngoài ra áo quần được may bằng vải sợi, khi nhìn thấy gần gũi với tự nhiên và thanh thoát.

Hoặc mang một đôi dép mộc cũng là một phong thái nhẹ nhàng, vừa gần gũi với cây cỏ và cũng là một cách bình dị dễ thương.

Những nhà tạo mẫu hiện nay cho rằng nghệ thuật thẩm mỹ cũng phải gần gũi với tự nhiên và tôn trọng tính tự nhiên. Ví như một cái túi xách thời trang có thể làm từ cỏ tự nhiên, nhưng nhờ vào bàn tay con người mà nó trở thành sản phẩm vừa thời trang vừa thẩm mĩ. Một chiếc áo với chất liệu vải thô cũng làm cho con người dễ chịu tao nhã. Đó là nói đến cái đẹp của thế gian. Còn người xuất thế thì sao?

Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người. Người xuất gia mặc áo nhà chùa trông trang nghiêm và dễ mến, kể cả nếp nhăn hoặc nếp rũ trên cà sa. Xin hãy biết tôn trọng đừng làm cho hoen ố và biến tướng. Có người bảo tại sao y phục nhà chùa mặc vào trang nghiêm và thanh thoát? Đúng vậy vì hình thức và nội dung hài hoà mộc mạc. Đó là thẩm mĩ, không đúng sao?

Đúng thế, hài hoà là đẹp, một trang phục đẹp phải hài hoà từ màu sắc cho đến kiểu dáng, tránh choải nhau. Còn người xuất gia tìm cầu đạo giải thoát thanh tịnh thì phù hợp với mộc mạc tự nhiên, ngược lại gấm vóc lụa là không hợp với người xuất gia. Có truyền thống và trang phục truyền thống làm người khác dễ mến và dễ chấp nhận. Nếu một người xuất gia tham sắc cầu danh, thích xa hoa lộng lẫy, ăn mặc sang trọng không những là cho người khác mất tín tâm mà còn bị cười chê, không hổ thẹn sao! Nếu đem chuyện một người xuất gia chuyên lo tủ áo quần, y hậu gấm vóc, trang sức chuỗi ngọc có phải làm cho người nghe choáng váng. Bạn là người xuất gia, có thể bạn không quan tâm, nhưng lương tri của bạn đang lên tiếng đó!

Nhìn xem hình ảnh của các sư tăng Phật giáo nguyên thuỷ cho đến nay vẫn mặc bộ cà sa do Đức Phật chế ra, đang khoan thai bước nhẹ trên phố phường hiện đại khiến người khác kính ngưỡng và phát khởi tín tâm.

Phật giáo ở các nước bắc truyền màu sắc vừa thiếu thống nhất, nhiều loại y phục khác nhau, nếu mỗi người tự tiện chọn màu, tự tiện tạo mẫu, thì không biết bao lâu nữa y phục truyền thống biến dạng và loạn xạ. Từ chỗ biến dạng đó mà Tăng chúng trở nên ô hợp. Nếu người xuất gia không tự giác thì tự đánh mất mình, tự đào thải mình, tích tập các ác hạnh, thiếu qui củ và dễ bề cho ma chướng ngoại đạo phá hoại. Chắc chắn trong sự bê bối này tăng ni không có lợi ích gì trong việc tu học nhưng các cơ sở may mặc tăng phục thì càng khoét rộng kiếm tiền.

Người xuất gia mặc y phục truyền thống giản dị, đầu tròn áo vuông, phong thái thoát tục, tại sao lại phải nhờ vào vật chất để nâng cao sở đắc của mình. Người xuất gia sống trong thời hiện đại, vật chất sung mãn cám dỗ mà nhận chân được sự lợi hại của vật chất, chuyên tâm tầm cầu chân lí giải thoát, trang nghiêm thế giới bằng hương giới định huệ, bước qua cuộc đời bằng niềm tin bất hoại.

Y áo xa hoa chỉ làm cho người khác mất đi tín tâm, mà còn tạo cho người khác sự phản cảm; người xuất gia cần thiết nhất là trau dồi giới định huệ để trang sức cho giới thân huệ mạng. Như trong kinh Di giáo Đức Phật dạy: “Hổ thẹn là trang phục đẹp nhất trong tất cả các trang phục.” Chúng ta đừng nghĩ rằng sự xa hoa, lọng lẫy trong trang phục và vật chất là chỗ bù đắp và che dấu sự yếu kém phẩm chất của mình, mà ngược lại chỉ làm cho người khác thêm khó chịu.

Người xuất gia phải mặc cho mình chiếc áo trung thực, đừng lơi lõng chính niệm với vật chất bên ngoài, mà phải luôn gìn giữ mối đạo và giải thoát. Tại sao chúng ta phải nhờ đến sự xa hoa và vật chất bên ngoài để thể hiện bản sắc của mình, không phải thế, chúng ta phải biết cái đẹp của nhân cách, đức hạnh mới là lâu dài và chân thật. Sự thanh thoát khiến người đời tín mộ của một tu sĩ là thân khẩu ý tương ưng, nghĩa là thân làm, miệng nói và ý nghĩ không trái nghịch nhau, chỉ có thân làm việc đúng đắn, miệng nói lời chân chính thì mới khế hợp với tâm giải thoát, từ đó mới làm cho phẩm hạnh của người tu toả sáng, nếu không thì miệng nói thao thao nhưng nội tâm rối loạn, làm cho phẩm hạnh khiếm khuyết không toả sáng lên được.

Người đời nay bỏ gốc tìm ngọn, bỏ trong tìm ngoài cho nên khó tránh được vật chất tiền tài làm cho mê hoặc. Nếu người xuất gia hiểu được mục đích và giá trị của việc tu hành, soi chiếu nội tâm, tu dưỡng đức hạnh, thì cho dù mang dép cỏ áo thô cũng toả sáng thanh thoát, cần gì phải đua tranh thói đời, chạy theo phù hoa vinh nhục, tránh được dèm pha, tạo thêm công đức và tín tâm của quần chúng Phật tử.

Hãy tìm lại cho mình chiếc áo giải thoát!

T.H.T (Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quàn - Huế)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2015(Xem: 10043)
Hôm chủ nhật cuối tuần ngày 20.09.2015, lớp ngành Thanh Gia Đình Phật Tử Tâm Minh tại Chùa Viên Giác, Hannover do mình hướng dẫn đã thảo luận về đề tài "Duyên Khởi và Dòng người tỵ nạn tại Âu Châu". Vì sao mình chọn đề tài nóng bỏng này cho các em thảo luận? Bởi các em là những thanh thiếu niên đã có bằng tú tài hoặc đang học đại học, cần có một cái nhìn mọi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cũng như ngay chính bản thân mình bằng lăng kính giáo lý Phật Đà, để phát lòng từ bi rộng lớn, chứ không phải từ bi "có điều kiện"! Điều này sẽ giúp cho các em tăng thêm sự hiểu biết về giáo lý thực dụng của Đức Thế Tôn khi trao đổi với bạn bè khác trong trường. Là một Phật tử, ta nên tập quán chiếu mọi pháp thế gian qua lăng kính Phật Giáo, thì sẽ nhận ra được "Phật pháp không ngoài thế gian giác!"
27/09/2015(Xem: 5724)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10053)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 7780)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 7941)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 8969)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 8984)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7546)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10039)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 7966)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]