Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp

31/10/201109:56(Xem: 18610)
Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp
Buddha_1


AI THẤY PHÁP NGƯỜI ẤY THẤY PHẬT,
AI THẤY PHẬT NGƯỜI ẤY THẤY PHÁP

Thích Hạnh Bình

Nội dung mà chúng tasẽ thảo luận trong bài viết ngắn này là “Ai thấy pháp là người ấy thấy Phật, aithấy Phật người ấy thấy pháp”. Thật ra chủ đề này không phải tác giả tự đặt màvốn là lời Phật dạy, được tìm thấy nhiều nơi trong kinh A hàm hay Nikaya.

Nguyên nhân đức Phậtnói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâmchung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lầncuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được,cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mìnhở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khiđến đức Thế Tôn hỏi:

-Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vânhay hối hận không ?

-Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân conkhông đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn..

-Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. NàyVakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1].

Trênđây là đoạn đối thoại giữa Thế Tôn và Vakkali. Qua mẫu đối thoại này, nó gợi ýcho chúng ta hiểu rõ một vài vấn đề căn bản trong Phật pháp. Vấn đề trước tiênmà chúng ta cần xác định nơi đây là. Đức Phật và Tỷ kheo Vakkali đứng hai vịtrí khác nhau. Tỷ kheo Vakkali đứng từ góc độ tình cảm, có lòng kính ngưỡng,muốn đảnh lễ và tận mắt nhìn dung nhan đức Phật lần cuối trước khi nhắm mắt lìatrần. Thế nhưng, đức Thế Tôn không đứng từ góc độ tình cảm này, an ủi Vakkali.

Ngượclại Ngài đã đứng từ góc độ một vị Đạo sư đến thăm Vakkali lần cuối và giáo dụcVakkali nhận chân được chân lý để được giác ngộ và giải thoát, cho nên Ngài đãnói câu: ‘có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này’ .

Theotôi lời nói này có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất mà Ngài muốn trao truyền chochúng ta là, Ngài là con người như bao nhiêu con người khác, do vậy thân thểcủa Ngài cũng giống như bao nhiêu thân thể khác, cũng cần có sự ăn uống ngủnghỉ, cũng có trạng thái bịnh hoạn ốm đau và bài tiết. Những chất được bài tiếtra mùi tanh hôi cũng giống như mọi người khác. Không nên có suy nghĩ ngây thơ chorằng, đức Phật không còn những hiện tượng này.

Nếuchúng ta có cho rằng, Phật và chúng sanh khác nhau, sự khác nhau đó cũng chỉ làsự khác biệt giữa nhận thức, tức là sự khác biệt giữa người đã giác ngộ(Buddha) và chưa giác ngộ. Người đã giác ngộ không còn những loại khổ về mặttâm lý, nhưng những loại khổ về mặt tự nhiên vẫn còn, như nóng lạnh, bịnhhoạn.v.v...

Cònngười chưa giác ngộ, có cả hai loại khổ tự nhiên của vật lý và tâm lý. Thật ranổi khổ lớn nhất của con người là nổi khổ về tâm lý, không phải vật lý. Thứhai, Ngài muốn nói rằng, Vakkali là người sống quá nặng nề về tình cảm, quá chútrọng về mặt hình thức bên ngoài của Như Lai, không thấy cái giá trị đích thựctừ bên trong mà Ngài đã chứng được dưới cội cây Bồ đề. Cái giá trị của đức ThếTôn là chân lý không phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp. Thế thì Vakkali muốndiện kiến cái thân tướng của Thế Tôn để làm gì? Có ích gì cho sự thuyên giảmcơn bịnh trầm trọng mà ông đang gánh chịu? Có giúp gì cho cái chết sắp cận kềmà Vakkali đang đối mặt ?

Trướcnổi đau khổ này, chỉ có giáo pháp mà Thế Tôn đã chứng mới có thể làm chấm dứthay tối thiểu cũng làm giảm bớt sự đau khổ của Vakkali, cái pháp đó, chân lý đóVakkali cần phải diện kiến thấy được trước khi qua đời, nếu không sống đời sốngxuất gia vô ích, không có lợi gì cho mình huống gì là làm lợi lạc chúng sinh.

Thếthì chân lý mà Ngài chứng được dưới cội cây Bồ đề là gì ? Đó là đạo lý duyênkhởi (pratiya-samutpada), nguyên lý vận hành của con người và vũ trụ, trên thếgian không có một vật, một người nào sinh tồn hay biến mất mà không theo nguyêntắc này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” vớinội dung như sau:

“Phápduyên khởi chẳng phải do ta làm ra, chẳng phải do người khác làm ra. Dù Như Laicó xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian, pháp này vẫn tồn tại. Như Lai tựgiác ngộ pháp này, thành đẳng chánh giác...”[2]

Giáolý mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là duyên khởi mà duyên khởi lànguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do đức Phật tự mình sáng tạo ra mànó là nguyên tắc vận hành của con người và vũ trụ, không có một cái gì mộtngười nào lại vận hành ngoài qui luật này, cho nên giáo lý duyên khởi được gọilà chân lý. Từ chân lý trong nhà Phật được mang ý nghĩa như vậy, không phải làlời nói hồ đồ, thiếu cơ sở.

Căncứ từ giáo lý duyên khởi này, đức Phật chỉ ra bản chất con người không có cáigì gọi là ngã (atmam) hay linh hồn trường cửu, các sự vật luôn luôn ở trongtrạng thái thay đổi chuyển dịch, sự chuyển dịch đó đức Phật gọi là vô thường(anitya), không có một pháp nào đứng yên cố định. Sắc đẹp, sự giàu sang, địavị.... dù chúng ta có cố giữ đến đâu, rồi cũng phải chịu đổi thay ở một lúc nàođó. Sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu chính là sự nhận thức đúng hay sai,có nghĩa là thái độ của chúng ta như thế nào về thực trạng này.

Ngườitrí chắc chắn không cưỡng ép làm một việc gì trái với qui luật, do vậy khi sựvật vô thường chuyển dịch, người trí không vì vậy mà sinh buồn rầu lo âu hay cóthái độ chống đối, chỉ có kẻ ngu mới muốn bắt sự vật đứng yên theo ý mình. Muốnmà không được là nguyên nhân sinh ra đau khổ.

Vìlòng thương chúng sanh trầm luân trong đau khổ, đức Phật tùy theo căn cơ vàtrình độ khác nhau của mỗi loại chúng sanh, dùng mọi phương tiện khác nhau chỉcho chúng sanh thấy được chân lý này, để họ được giác ngộ và giải thoát mà hìnhthành Tông phái, phân chia có Tiểu có Đại.

Từđiểm này nó gợi ý cho chúng ta hiểu, Pháp duyên khởi, vô thường, vô ngã là chânlý, những phương tiện hay những hình thức giáo dục khác nhau, nó không phải làchân lý, vì nó chỉ có giá trị, và phù họp với một đối tượng cụ thể và nhất địnhnào đó, không thể là cái chân lý chung cho mọi con người và mọi xã hội khácnhau, cho nên không được gọi là chân lý.

Ởđây tôi muốn mọi người nên chú ý một điều rằng, Lòng ngưỡng mộ đó rất tốt vàrất cần, nhưng chúng ta không nên lẫn lộn lòng ngưỡng mộ này đồng nghĩa sự hiểubiết về Phật pháp. Xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tôn sùng đó, chúng ta đã phátngôn rất bừa bãi, đôi khi có thương tổn đến Phật pháp.

Vídụ chúng ta thường nói rằng, Phật pháp là chân lý, trong khi đó chúng ta giớithiệu một số quan điểm về Phật pháp, nó hoàn toàn không liên hệ có giá trị gìvới đời sống con người, đôi khi lại có hại cho cuộc sống. Trong khi đức Phật nổlực giới thiệu, làm cho con người thấy rõ được chân lý để được giác ngộ và giảithoát thì chúng ta làm ngược lại giới thiệu với con người xã hội với những quanđiểm mù mờ, đen tối, thiếu cơ sở, thiếu ánh sáng của khoa học.

Thếthì những quan điểm đó làm sao gọi là chân lý được? Có thể điều đó đúng và họplý cho một phần tử nào đó trong xã hội, nhưng không phải là tất cả, cho nênkhông thể gọi là chân lý. Đó chính là lý do tại sao đức Phật dạy: Tin ta màkhông hiểu ta là hủy báng ta. Hoạt động của khối óc và con tim là hai lãnh vựckhác nhau, cả hai đều cần cho sự sống của con người, nhưng không thể thay thếcho nhau.

Tráitim mà thay cho khối óc suy nghĩ sự việc thì cuộc đời sẽ xuất hiện biết bao sựlộn xộn và rối rắm; Khối óc mà thay thế cho trái tim làm việc thì cuộc sống củacon người chẳng khác nào như sinh hoạt của tòa án, cho nên chúng ta không nênlẫn lộn giữa khối óc và con tim. Theo tôi, nên sống với nhau bằng trái tim vànên làm việc bằng khối óc.

Quasự trình bày trên nó giúp chúng ta lý giải câu: Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta,Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. Ở đây khái niệm Ta chỉ cho đức Phật, như vậycâu này được hiểu là Ai thấy pháp, người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấythấy pháp. Pháp ở đây chỉ cho giáo pháp duyên khởi. Ai thấy được pháp duyênkhởi, người ấy cũng thấy được trạng thái vô thường, vô ngã của vạn vật và ngaycả bản thân mình.

Aiđã thấy được vô thường vô ngã thì người ấy không thể chấp: “Cái này là của tôilà tôi là tự ngã của tôi”, như vậy, được giác ngộ và giải thoát. Ở đây, kháiniệm giác ngộ và giải thoát là khái niệm mô tả về kết quả của sự thấy và biết,từ trong nhà Phật thường dùng là trí tuệ, chính là kết quả sự tu tập của đứcThế Tôn dưới cội cây Bồ đề. Sự giác ngộ này đã làm cho chính Ngài thoát khỏimọi sự ràng buột khổ đau, cho nên gọi là giải thoát. Bất cứ ai giác ngộ nhưNgài cũng sẽ có những sự giải thoát như Ngài không cao không thấp.

Đươngthời cũng đã có nhiều người của nhiều giai cấp khác nhau thực hành lời dạy củaNgài, cũng đã được giác ngộ giải thoát. Sau khi sống trong giáo pháp của Ngài,được giác ngộ giải thoát, họ mới cảm thấy rằng, sự khác biệt giữa đường lối tutập của đạo Phật và các tôn giáo truyền thống Ấn độ rất xa. Đức Phật thì khuyêncon người “Đến đạo Phật để thấy và biết, giải quyết khổ đau, chứ không phải đểtin” còn các tôn giáo khác thì đặt nặng niềm tin niệm chú và cầu nguyện.

Đóchính là lý do tại sao có nhiều người sau khi nghe đức Phật nói pháp bèn phátbiểu:

“Thậtvi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gìbị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạchướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày,giải thích.”[3]

Nhưvậy, điểm nổi bật của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sự giác ngộ giải thoát, khôngphải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp, nguyên tắc để trở thành bậc giác ngộ giảithoát chính là thấy được pháp duyên khởi vô thường vô ngã. Như vậy, ai muốnthấy Phật thì người ấy phải thấy được pháp. Cũng vậy, ai đã thấy được phápduyên khởi vô thường vô ngã cũng có nghĩa là người ấy đã thấy Phật, vì kháiniệm Phật với khái niệm pháp chỉ cho người thấy chân lý và chân lý.

Nhưvậy, tỷ kheo Vakkali nếu muốn diện kiến đức Thế Tôn cần nên diện kiến sự giácngộ và giải thoát, nếu như Vakkali muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đức Thế Tôn thìVakkali nên thực hành giáo pháp của Ngài, nếu như Vakkali muốn đoạn trừ nhữngnổi khổ đau cho mình thì Vakkali chính mình phải giác ngộ lý duyên khởi vôthường và vô ngã., còn nếu như Vakkali muốn hóa độ chúng sanh thì trước tiênVakkali phải giác ngộ chân lý. Đó là nội dung và ý nghĩa câu: “Ai thấy pháp,người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp” khi Ngài khuyên tỷ kheoVakkali lúc lâm bệnh.

Dẫurằng, đây là lời dạy của Thế Tôn cho Tỷ kheo Vakkali trong quá khứ. Tôi tinrằng, nội dung và ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị thiết thực cho Phật giáongày nay. Phải chăng chúng ta đang cố tô son phết vàng ca ngợi 32 tướng tốt củađức Phật nhưng chúng ta lại vô tình hay cố ý quên đi giáo pháp mà Ngài đã giácngộ ?

Phảichăng với lòng kính ngưỡng chúng ta dùng mọi lời tán dương, giới thiệu tínhsiêu việt của hệ thống triết lý nhà Phật, nhưng chúng ta quên rằng thế hệ tuổitrẻ ngày hôm nay là thế hệ được được trưởng thành trong xã hội tiến bộ về khoahọc kỷ thuật, và được đào tạo trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có trình độchuyên môn cao, chúng sẽ khó chấp nhận những quan điểm mù mờ thiếu cơ sở khoahọc. Trong khi đó phần lớn của con người trong xã hội ngày nay, quan tâm đếnnhững vấn đề có liên quan đến con người và xã hội mà họ đang sinh tồn, khôngphải là những vấn đề mang tính triết lý siêu hình.

Tôitin rằng, giáo lý mà đức Phật giác ngộ là giáo lý cho con người, đối tượng màđức Phật giáo dục là con người. Dẫu rằng hệ thống giáo lý đó đề cập giải quyếtnhững vấn đề cụ thể trong quá khứ, đôi khi không còn phù họp cho con người vàxã hội ngày nay, nhưng ngang qua những hình thức giào dục đó, nó vẫn ẩn chứamột nguyên lý tinh thần giáo dục mà đức Phật muốn gởi cho các thế hệ sau khôngcùng xã hội và lãnh thổ. Nguyên lý đó, tinh thần đó có giá trị tuyệt đối, ápdụng cho mọi thời đại và con người.


[1]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt namẤn hành, năm 1993, trang 219.

[2]H.T Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, Viện nghiên cứu Phậthọc Việt nam ấn hành 1993, trang 635.

[3]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấnhành, năm 1993, trang 219.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6448)
Theo cách nghĩ thông thường của người bên ngoài cửa chùa, Lục Hòa là một nguyên lý, một nguyên tắc hay qui tắc được áp dụng trong Tăng đoàn để có đời sống hòa hợp. Đơn giản mà nói, cách nghĩ ấy đúng. Nhưng dùng chữ “nguyên lý” hay “nguyên tắc” khiến người ta không khỏi có cảm nghĩ rằng để áp dụng Lục Hòa, tập thể xuất gia có vẻ như phải khép mình vào một thứ kỷ luật khắt khe, đầy khuôn khổ, phép tắc và thiếu tình cảm, giống như kỷ luật quân đội.
09/04/2013(Xem: 11700)
Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
08/04/2013(Xem: 8276)
Hôm nay là ngày Mồng Một tháng Năm nhuần năm Mậu Dần, nhằm ngày 24 tháng 6 năm 1998 sau khi làm lễ Bố Tát (Uposatta) tụng giới nơi chánh điện, trở lại thư phòng, tôi bắt đầu viết cho quyển sách của năm nay nhan đề là: Sống và Chết theo quan niệm của Phật Giáo.
08/04/2013(Xem: 8887)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
08/04/2013(Xem: 6067)
Sáng nay, tôi đang rửa chén đoại trong quán, Thiện Đạt, một Phật tử công quả tại Chùa hớt hải chạy qua quán báo tin: - Anh Thị Chơn ơi! Anh có biết là Thượng Tọa Thiện Thông đã bị đưa vào nhà thương rồi chưa? - Chuyện gì vậy ? Tôi hỏi.
08/04/2013(Xem: 5531)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu. Khi hết hạnh phúc, người ta bất hạnh; và người ta cũng trở nên hạnh phúc khi hết bất hạnh. Đi từ trạng thái này qua trạng thái kia xảy ra tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến, . . .
08/04/2013(Xem: 17076)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 23013)
Quyển sách không nhằm vào chủ đích phân tích những gì trong kinh điển mà đúng hơn là để nhắc nhở chúng ta hãy nên nhìn thẳng vào bản chất của chính mình và của mọi vật thể chung quanh hầu giúp chúng ta biết ứng xử thích nghi hơn với cái bản chất ấy của chúng và để giúp chúng ta trở thành những con người sáng suốt, hoàn hảo và an vui hơn. Bản dịch sang tiếng Việt này được dựa vào ấn bản tiếng Anh của Rod Bucknell và tiếng Pháp của Jeanne Schut trên đây.
08/04/2013(Xem: 14484)
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc.
08/04/2013(Xem: 27153)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Ðức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]