Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

04/07/201121:02(Xem: 7201)
Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÀNH LỄ "NHẤT BỘ NHẤT BÁI"
Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

lelayLễlạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tương truyền rằng trong văn hóa truyền thống cổ của người Ấn Độ có tập tục đi lễ lạy các thánh tích gọi là "Tuần lễ", chỉ cho việc đi về thánh tích của các bậc thánh nhân lễ lạy, để cầu nguyện và cũng là cảm niệm tưởng nhớ, đến hành trạng cũng như công đức của vị thánh, thần đó đã đem đến cho thế gian.

Phật Giáo từ khi Đức Thích Tôn vào vô dưNiết Bàn thì phong trào đến các thánh tích của Đức Phật để lễ lạy chiêmbái rất thịnh hành trong Phật Giáo đồ và dần dần trở thành một nghi thức quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo của Phật Giáo, chính vì vậy thánh tích Tứ Động Tâm của Đức Phật trở thành nơi hướng về lễ bái cũng như hành hương của toàn thể tín chúng Phật Giáo trên toàn thế giới.

Tất cả những ai nếu là tín chúng của ĐạoPhật thì cũng đều chung có một tâm niệm, trong đời của mình nếu đầy đủ nhân duyên sẽ về đến thánh tích của Phật một lần để lễ lạy, chiêm ngưỡng, để thỏa nguyện được tình cảm của một người con xa cha mẹ đã lâu muốn có một lần hội ngộ, và đó là một trong những nguyên nhân chính để nghi thức triều sơn lễ thánh trong suốt hơn 2000 năm hình thành phát triển, cũng như có sức sống mãnh liệt trong Phật Giáo nói chung và Phật Giáo Bắc Truyền nói riêng.

Phật Giáo đông truyền, các vị Tăng và Phật tử của miền Đông Độ, đối với nguyện vọng về đất Phật chiêm lễ thánhtích lại càng nồng nhiệt và tha thiết hơn, cũng chính vì nguyện vọng này cho nên những vị thánh Tăng phát tâm đến miền thánh tích Tây Thiên của Phật Giáo Bắc Truyền ra đời, Trung Quốc có ngài Nghĩa Tịnh và Ngài Huyền Trang.v.v...

Việt Nam ta từ rất sớm cũng đã có rất nhiều vị thánh Tăng cũng đi về thiên trúc hành lễ thánh tích, theo sách Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Ngài nghĩa Tịnh đời nhà Đườngcó chép: "... ở Giao Châu (Việt Nam) cũng có các vị Pháp sư qua Tây Vực, như ngài Vận Kỳ Pháp sư, Ngài Mộc Xoa Đề Bà Pháp Sư, Ngài Khuy XungPháp Sư, Ngài Huệ Diễm Pháp sư... là những vị sư người Giao Châu đi đếnTây Vực cầu Pháp..." Và thời hiện đại Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Thiện Châu..v.v... là những bậc Danh Tăng của Việt Nam đi cầu Pháp cũng như lễ bái thánh tích nổi tiếng của Phật Giáo Việt Nam đương đại.

Sách Thông Tục Biên Thần Quỷ chorằng tục triều sơn lễ thánh có ở Đông độ vào thời kỳ nhà Tây Hán, trongsách có đoạn chép: "Người ngày xưa rất ít khi đi ra khỏi nhà, nay nhữngngười giàu có, muốn đến các nơi danh sơn thắng tích để kỳ đảo...theo những nguyên nhân trên, ngày xưa đi đến một danh sơn thắng tích xa sôi nào đó để dâng hương kỳ đảo, nay gọi là triều sơn vậy, theo đây cho thấytục triều sơn có vào thời Tây Hán."

lay5

Thời kỳ Tây Hán Phật Giáo bắt đầu truyềnvào Đông độ, dần dần thịnh hành và được giai cấp thống trị cũng như quýtộc ở Đông độ tiếp nhận và phát triển. Đến thời nhà Đường Phật Giáo BắcTruyền đã đạt đến thời cực thạnh, thời kỳ này sự hưng thạnh của tư tưởng cũng như triết lý sống Thiền tông, làm cho tư tưởng cũng như đời sống hành đạo của Tăng sĩ Phật Giáo Bắc Truyền có sự thay đổi mạnh mẽ.

Phong trào đi Tây Vực để triều bái thánhtích của Phật Giáo đồ cũng có sự thay đổi rõ rệt, thay vì phải đi đến Tây Thiên họ bắt đầu triều bái lễ lại các danh sơn đạo tràng của các vị đại Bồ tát ứng thân hiện tướng ở Đông độ. Trong sách Đại Phật Tự của Trịnh Chấn Phongchép về không khí triều sơn lễ thánh ở Đông Độ như: "...quảy túi màu vàng đi triều sơn, người ốm yếu, già cả, phụ nữ, đến những thiếu nữ yểu điệu, những bác nông dân chất phát, ai nấy đều kiền thành mỗi bước mỗi cúi đầu, thậm chí có người mỗi bước một lạy, cứ như thế lạy đến đỉnh núi..."

Theo tư tưởng và quan niệm của Thiền Tông, Tâm tức là Phật, cần gì phải đi cầu Phật ở bên ngoài, Linh Sơn có đâu xa, chỉ trong tâm mà thôi, cho nên Thiền gia có câu "Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu, nhơn nhơn hữu cá Linh Sơn Tháp, hảo hướng Linh Sơn Tháp hảo tu.", tạm dịch '' Cần gì phải đến cầu Phật ở Linh Sơn, Linh sơn ở trong tâm các vị, trong tất cả các vị đều có tháp Linh sơn, nên hướng về tháp Linh Sơn để tu.

Những đạo tràng nổi tiếng nhất Đông độ, được tín đồ hành hương lễ bái thạnh nhất là Tứ Đại danh sơn, Đạo tràng của bốn Vị Bồ Tát là Ngũ Đài Sơn của Bồ Tát Văn Thù, Nga Mi Sơn của Bồ Tát Phổ Hiền, Phổ Đà Sơn của Bồ Tát Quán Thế Âm, Cửu Hoa Sơn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong sách Hoa Nguyệt Hận hồi thứ 8chép: "...Tâm ấn phát nguyện triều sơn, đi thuyền từ Phổ Đà lên đến bờ, rồi từng bước đi đến Nga Mi, năm trước đã lễ qua Ngũ Đài.."

Triều sơn lễ lạy cầu nguyện chư vị Bồ Tát gia hộ, và học theo hạnh nguyện và đức lực tu hành của các Ngài là tâm điểm của tất cả các hành giả thực hành pháp triều sơn lễ thánh, trong đó lấy sự chí thành, kham nhẫn và nhất tâm cầu nguyện làm tông chỉ. Trong Khổ Hạnh Tấn Hương có chép: Ngày xưa người tín đồ khi triều sơn lễ bái tấn hương, trước tiên phải thực hành việc tựmình chế ngự chính mình, không để cho những cảm giác của vật chất, cũngnhư giác quan của mình, khiêu dậy những ham muốn tầm thường, kham nhẫn chịu đựng trước mọi khó khăn thử thách của thời tiết cũng như hoàn cảnh,thực hành pháp tự mình rèn luyện và mài dủa chính mình và nhất tâm kiềnthành cầu nguyện, để cầu được sự chứng minh và gia hộ của chư vị Phật Thánh. Theo truyền thống triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền có 2nghi thức: 1. Lễ lạy tấn hương, 2. Xã thân lao xuống vực.

Lễ lạy tấn hương hay còn gọi là khấu đầutriều thánh, những hành giả phát nguyện triều sơn lễ thánh, tức là từ nơi trụ xứ của mình hướng về địa điểm của mình phát nguyện đãnh lễ, có hai cách triều sơn lễ thánh, 1 là bước một bước lạy một lạy, 2 là bước ba bước lạy một lạy, cứ như thế lạy chừng nào cho đến địa điểm muốn đến mà thôi.

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền ở Trung Quốc, lịch đại chư hành giả tu pháp triều sơn lễ thánh nhiều vô số kể đời nào cũng có, còn ở Tây Tạng thì hầu hết các môn đồ của Phật Giáo không kể xuất gia hay tại gia, trong cuộc đời của họ có ít nhất là một lần tam bộ nhất bái hoặc nhất bộ nhất bái, lạy từ trụ xứ của mình là người xuất gia, còn người tại gia thì từ nhà của mình hoặc là quê hương của mình thực hành triều sơn lễ thánh về cung Botala Phổ Đà Lạc Già nơi họ cho là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm.

lay2

Người dân Tây Tạng đảnh lễ nhất bộ nhất bái quanh cung điện Botala. Ảnh: M.H

Thời cận hiện đại ngôi sao bắc đẩu của thiền lâmTrung Hoa là Ngài Hư Vân Đại Hòa Thượng vì muốn báo đáp thâm ândưỡng dục của cha mẹ, theo lời Phật dạy trong Kinh Điển Đại Thừa, phát nguyện triều sơn lễ thánh để đền đáp thâm ân, Ngài phát nguyện lễ "Tam bộ nhất bái" ba bước lạy một lạy, từ Phổ Đà Sơn đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát lạy đến Ngũ Đại Sơn đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, lạy đến ba năm mới đến Ngũ Đài.

Pháp môn triều sơn lễ thánh trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam cũng có một vị trí hết sức quan trọng, nhưng cách thức cũng như danh xưng thì có khác, ở nước ta triều sơn lễ thánh gọi là đi trẫy hội, đi hội, Phật Giáo Việt Nam có cội nguồnđược truyền trực tiếp từ Tây Thiên, cho nên những tập tục Phật Giáo từ Tây thiên do các Phạm Tăng đem đến vẫn còn được gìn giữ cho đên ngày hômnay, và điển hình rõ nét nhất là cách đi đến đền chùa danh sơn thánh tích trẫy hội lễ bái của người Việt, nếu đem so sánh với các không khí lễ hội tuần lễ thánh tích của các tôn giáo Ấn Độ thì ta thấy trong đó córất nhiều nét tương đồng về cách thức cũng như ý nghĩa.

Lễ bái trẫy hội vào dịp đầu xuân, cũng như các ngày lễ kỷ niệm của các bậc tiên thánh, những thánh địa của PhậtGiáo Việt Nam như chùa Hương Đạo, tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm, núi YênTử Đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, chùa Thầy, Chùa Keo, Chùa Dâu.v.v... tràn ngập không khí lễ hội, nhìn như một biển người, qua đó cho ta thấy được giá trị của pháp môn và tín ngưỡng triều sơn lễ thánh và vị trí củapháp môn trong sinh hoạt tín ngưỡng của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam.

Truyền thống triều sơn lễ thánh trong Phật Giáo Bắc truyền tại Việt Nam cũng rất thịnh hành, và không khí nô nức nhộn nhịp, kính thành cũng không thua kém gì ở Trung Quốc, cho đến trong ca dao tục ngữ của người Việt có những câu liên quan đến triều sơnlễ thánh như: "Nào ai quyết chí tu hành, chưa về Yên Tử chưa đành lòng tu." hay câu: " Dù ai đi đâu về đâu, hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về.Dù ai buôn bán trăm bề, nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu" và câu: " Gáichưa chồng trông hang Cắt Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy".

Pháp môn lễ lạy Tấn hương hay còn gọi làkhấu đầu triều thánh, ở Việt Nam không được thịnh hành, và cũng rất ít những tài liệu nhắc đến các vị Tăng Việt Nam hành trì Pháp môn này. Trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền ở Việt Nam cũng rất ít tài liệu đề cập đến nghi thức khấu đầu Triều sơn, đại đa số người Việt Nam biết đến danh từ "nhất bộ nhất bái" hoặc "tam bộ nhất bái" được truyền tụng qua các tích tuồng như "Tiết Đinh Sang Cầu Phàn Lê Huê" hoặc qua các tiểu thuyết giả sử của Trung Hoa như "Tiết Nhơn Quý Chinh Đông" hay "Tiết Đinh Sang Chinh Tây"..v.v...

Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam thời hiện đại mới bắt đầu có những hành giả thực hành Pháp khấu đầu triều sơn lễ thánh, ví dụ như Ni chúng chùa Hương Sơn, thôn Vạn Hạnh thực hành lễ nhất bộ nhất bái lên chùa núi Thị Vãi và gần đây nhất là sự phát nguyện vô cùng thù thắng Đại Đức Thích Tâm Mẫn chùa Hoằng Pháp lễ nhất bộ nhất từ chùa Hoằng Pháp T.p Hồ Chí Minh, triều sơn lễ thánh đến núi Yên Tử Quảng Ninh đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, cái nôi của Thiền Phái Việt Nam, đây là một nghi thức triều Tổ thù thắng nhất của Tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Nước Việt.

lay1

Đại Đức Thích Tâm Mẫn tam bộ nhất bái triều sơn lễ Tổ Trúc Lâm Yên Tử

Với một tâm niệm của người xuất gia "Thượng Báo Tứ Trọng Ân, Hạ Tế Tam Đồ Khổ" hạnh nguyện của Đại Đức thể hiện tấm lòng của người con phương nam luôn vọng về Tổ tông xứ Bắc, việclàm của Đại Đức thể hiện ý chí kiên cường và tâm kham nhẫn của Dân Tộc Việt nói chung, của người tu sĩ Phật Giáo nói riêng. Đại Đức là người thể hiện trọn vẹn tín tâm đối với Phật Pháp Tăng không gì lay chuyển nổicủa tất cả những người con Phật, sự thể hiện này là sự chứng minh thiếtthực nhất cho dòng máu của Phật Giáo luôn luôn dâng trào trong thân thểcủa Dân Tộc Việt Nam.

Cổ Đức dạy : "Do lễ bái hình tướng của sông núi, để cầu đắc thực thể vô hình vô tướng của sông núi, đạt đến vô ngại đại bi, lòng từ không còn chướng ngại nữa." hay năng nhẫn tất cả những điều khó nhẫn như “Chúng sanh Nhẫn”, "Pháp Nhẫn", "Vô Sanh Pháp Nhẫn", "Tịch Diệt Nhẫn" trong nhẫn pháp sanh định lực, nếu như trong cảnh nghiệm được tâm, trong khổ đắc được an lạc giác ngộ thì đạt được tông chỉ tu hành của pháp môn " khấu đầu triều sơn lễ thánh" vậy.

Lại nữa: "lễ lạy triều sơn, tiêu hết mộtphần tập khí, thì giảm hết một phần phiền não, được một phần quang minh, đồng thời cũng chứng được vi diệu bồ đề". Triều sơn lễ bái hàng phục ngã mạn của chính mình, thân hành lễ bái, khẩu tụng niệm danh hiệu của Phật, ý thành tâm sám hối, tam nghiệp thanh tịnh, vì công đức này nghiệp chướng tiêu trừ, tăng trưởng phước huệ, trong thời gian lễ lạy triều sơn, rèn luyện ý chí, thành tựu Bi, Trí, Hạnh, Nguyện, bồi dưỡng ýchí chịu đựng kham nhẫn, đầy đủ năng lực tiến tu Bồ Tát lục ba la mật, thành tựu đại bồ đề đây là công đức và lợi ích của pháp Triều Sơn lễ Thánh vậy.

Người hành trì pháp triều sơn lễ thánh nên dùng tâm nguyện cảm ân để triều sơn: Đối với ân đức của chư Phật, BồTát, Hiền Thánh Tăng, từ nội tâm phát tâm nhớ niệm thâm ân trọng đức, có như vậy chúng ta mới thể hội hết công ơn to lớn vĩ đại của Tam Bảo, và cũng từ sự biết ơn này, mà phát nguyện hơn nữa trong sự nghiệp hóa độchúng sanh, kế tục khai sáng hơn nữa sự nghiệp chấn hưng ngôi nhà Phật pháp.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm tàm quý vì: "Phật tại thế thời con trầm luân, nayđược nhơn thân thì Phật diệt độ, buồn biết thân mình nhiều nghiệp chướng, ra đời không thấy được kim thân", từ tâm niệm tàm quý phát tâm sám hối, tự thân mình từ vô thủy cho đến ngày nay phiền não nghiệp chướng thâm trọng, không được chánh thời nghe Phật thuyết pháp, không được sanh vào thời Phật còn tại thế, lặng hụp đắm chìm trong biển khổ sanh tử, nay phát nguyện đi một bước lạy hồng danh Phật lạy một lạy để sám hối nghiệp chướng của chính mình.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm cung kính: Tâm niệm cung kính đối với một người phát tâm học Phật không thể thiếu được, vì muốn được Phật Pháp thì tất cả đều phải dùng tâm cung kính cầu thỉnh mới có thể có được, chúng ta phát tâm triều sơn lễ thánh tức là tâm lễ kính chư Phật, thân cận thiện tri thức, vì vậy nếu không có tâm cung kính thì khó có thể thành tựu được.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát đại tín tâm vì: "Tín tâm là mẹ là nguồn gốc thành tựu các công đức", tín tâm là tâm niệm căn bản, điều kiện quan trọng nhất của người học Phật, chúng ta phải kiên định tín tâm của mình đối với chân đế của Tam Bảo, phước đức trí tuệ của chư Phật, nếu như niềm tin kiên định như vậy thì chúng ta mới có đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách vô cùng gian khổ trên hành trình triều sơn lễ thánh.

lay

Người Tây Tạng đảnh lễ trước chùa Đại Chiêu - Tây Tạng. Ảnh: M.H

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát Bồ đề tâm. Đây là tâm cốt lỏi để cầu đắc được đạo vô thượng bồ đề, nếu không phát bồ đề tâm thì không thể thành Phật đạo, vì có phát tâm bồ đề nên chúng ta cũng cần phát tâm trường viễn, truy cầu Phật đạo vĩnh viễn không thối chuyển, trong hành trình triều sơn một bước một lạy, khiến cho chúng ta có cảm nhận sâu sắc và thấm thía hơn nữa công hạnh vĩ đại của Chư Phật, Bồ Tát và cũng từ tâm niệm này mà phát khởi tâm vô thượng đạo.

Pháp môn triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền là một phương pháp tu học vô cùng thậm thâm và vi diệu nếu như ai không đủ những tâm niệm như trên muốn hành trì pháp môn này thì thật không thể thành tựu được, nên tất cả những vị hành trì pháp mônnày đều là những vị đại sĩ của Phật Giáo khiến cho chúng ta phải kính phục và đảnh lễ học hỏi. Nhất Tâm đảnh lễ quá khứ hiện tại vị lai chư vịĐại sĩ triều sơn lễ thánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/06/2014(Xem: 14834)
Trăng hạ huyền chếch trên đầu ngọn thông cuối đường. Một mình giữa đêm. Trụ đèn kiên nhẫn đứng thẳng và im lặng; bên cạnh cây bạch đàn cao ngất đang lao xao trước gió. Đèn vàng lay lắt tỏa bóng trong màn sương. Màu bông giấy đỏ rực dưới nắng mai, giờ trở nên tím sẫm. Con mèo lầm lũi, bước nhẹ trên mái nhà ai. Hoa một đóa, nở trong vườn đêm tịch mịch. Mùi cỏ dại phảng phất đâu đây. Trong phút giây bỗng thấy đời thênh thang, vô cùng.
23/06/2014(Xem: 8112)
Lễ kỉ niệm 7 năm phát triển của Thaihabooks nhân đôi niềm hoan hỷ với buổi giao lưu giữa Thầy Chân Pháp Đăng và các độc giả Phật tử về cuốn sách “ Trị liệu ung thư bằng chính niệm” vào lúc 13h ngày 20/6/2014, tại nhà Sách Thái Hà, số 119C5 Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, Cầu Giấy.
23/06/2014(Xem: 15815)
"Thiền tông Việt Nam luôn là mạch sống tuôn chảy trong lòng Phật giáo và dân tộc suốt từ thế kỷ VI đến nay. Có lúc mạnh mẽ tuôn tràn giữa ngàn hoa đô hội, có lúc len lỏi âm thầm trong núi sâu, rừng thẳm, ung dung thoát tục, khuất tịch tiêu sái. Tuy nhiên, mạch sống Thiền xưa nay vẫn như vậy: Không đến không đi mà là dòng sinh mệnh muôn thuở của những bậc thức tâm đạt bổn.
21/06/2014(Xem: 10178)
Chúng tôi, Nhóm Học Phật chùa Quang Nghiêm, gồm một số thân hữu và những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử trong vùng có cơ duyên gần gũi và học hỏi cùng thầy trong nhiều năm qua. Nhân đó, chúng tôi được biết, Thầy là một cây viết thường xuyên trên tập san: THEO DẤU CHÂN XƯA của Phật học viện Huệ Nghiêm, SÀI GÒN trước 1975. Nhưng sau những đợt đốt sách của chính quyền Cộng Sản, THEO DẤU CHÂN XƯA không còn nữa. Càng gần Thầy, chúng tôi nhận thấy những gì Thầy dạy và viết thật thực tế và giản dị trong việc áp dụng Đạo Phật vào đời sống hằng ngày cho chúng ta. Chúng tôi không muốn có sự thất thoát như xưa, nên mạo muội sưu tập một số bài mà Thầy đã viết trong thời gian qua. Đây là một món quà tinh thần của Thầy mà chúng tôi đã rút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hàng ngày. Có một điều quan trọng nữa là bài học thân giáo của Thầy: phong cách hiền hòa và đức độ lan tỏa từ Thầy êm đềm như dòng sông Thu Bồn xứ Quảng. Trong bất cứ lúc nào, nếu có dịp, Thầy thường nhắc nhở: “Học Phật có n
19/06/2014(Xem: 14610)
Hoài bảo một "CÁI MỘNG" trên 25 năm mới hoàn toàn thực hiện Trong lúc du học ở Xuân Kinh(1938), đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp Giáo Lý của Đoàn Thanh Niên Dục Đức, trong một tháng (mỗi đêm giảng 2 giờ) , do Bác sĩ Lê Đình Thám đảm trách (lớp này hiện nay còn Thượng Toạ Thích Minh Châu và Đạo hữu Võ Đình Cường v.v...) Tôi thích thú quá! Vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được rằng triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương. Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
09/06/2014(Xem: 19653)
Một lòng giữ niệm Di Đà, Hồng danh sáu chữ thật là rất cao, Năng trừ tám vạn trần lao, Người đời nên sớm hồi đầu mới hay. Khuyên ai xin chớ mê say, Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an, Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan, Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
08/06/2014(Xem: 6996)
Buổi sáng sớm đầu xuân, tôi theo Scott đi thăm chi hội Phật tử tại nhà tù tiểu bang (Prison Sangha). Từ xa lộ cao tốc hiện đại, lấy lối rẽ vào con đường nhỏ xuyên qua cánh rừng thông cao dày, một nhà tù khổng lồ giữa cánh đồng mênh mông trống vắng sừng sững hiện ra.
08/06/2014(Xem: 20362)
Chữ Đạo, là tiếng Trung Hoa,dịch ra Việt ngữ là con đường.Con đường được có hai loại : Có hình tướng,không hình tướng. Có hình tướng (hữu vi tướng),là đường trên mặt đất như những con đường mòn trên núi, trong làng,đường quốc lộ từ tỉnh này qua tỉnh khác,gọi là đường cái quang. Đường để cho người đi,xe chạy trên đó và đường sắt( xe lửa ).Cũng có đường dưới mặt đất,gọi là địa đạo.Địa đạo có hai loại : đường xe lửa ngầm (Subway) và đường hầm.Những con đường sau đây ,cũng thuộc về hữu tướng;như:đường công danh, đường đời, đường khổ, đường sanh mạng, đường song song, đường chân trời, đường hàng không, đường cùng, đường xích đạo,v.v…Những con đường có tướng cũng có hai: Bằng phẳng và khúc khuỷu, ổ gà, ghồ ghề.
06/06/2014(Xem: 14454)
Đây là quyển sách do chúng tôi biên soạn, gồm những bài viết rời rạc. Mỗi bài, có mỗi đề tài khác nhau. Mục đích là nhằm giúp cho quý liên hữu ở đạo tràng Quang Minh tu học. Những bài viết gồm có: 1. Vài nét về quá trình sinh hoạt Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng. 2. Một đạo tràng lý tưởng. 3. Đối chiếu sự dị đồng giữa Ta bà và Cực lạc. 4. Cẩm nang tu tập (đặc biệt dành cho khóa tu ). Những tài liệu nầy trong thời gian qua, chúng tôi đã lần lượt đem ra trình bày hướng dẫn cho đạo tràng tu học. Với thâm ý của chúng tôi, là muốn cho mỗi liên hữu hiểu rõ thêm về đường lối tu tập, cũng như những lễ nghi hành trì cho đúng phương pháp mà Phật Tổ đã chỉ dạy.
06/06/2014(Xem: 26363)
Thơ và Tạp Bút là tập sách mà chúng tôi kết hợp chia làm hai phần: Phần đầu là những bài thơ mà chúng tôi đã sáng tác sau khi tập thơ Hướng Dương ra đời. Phần hai là những bài viết rời rạc qua những chủ đề khác nhau. Chúng tôi kết hợp lại tất cả những bài viết đó để in chung trong tập sách. Chúng tôi đặt danh đề chung cho quyển sách là “Một Cõi Đi Về”. Vì chúng tôi thiết nghĩ, cõi đời có muôn vạn nẻo nhưng lối về nguồn chơn thì chỉ có một. Giống như trăm sông, ngàn suối tuôn chảy mỗi hướng có khác nhau, nhưng tất cả cũng đều chảy chung về biển cả. Nói cách khác, đứng về mặt hiện tượng sự tướng thì vạn pháp có ra muôn ngàn sai khác, nhưng bản thể thì chỉ có một. Đó là ý nghĩa của câu nói: “Vạn vật đồng nhứt thể hay vạn pháp quy nhứt”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]