Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22 - Lễ dâng hương thời sáng sớm

24/04/201318:05(Xem: 9364)
22 - Lễ dâng hương thời sáng sớm


Khóa Hư Lục
Tác giả:Hoàng Đế Trần Thái Tông
Dịch giả:HT. Thích Thanh Kiểm

---o0o---

QUYỂN HẠ

---o0o---

* Lễ dâng hương thời sáng sớm

Núp thất! Bóng thỏ (2) vừa chìm; vầng ô (3) ló rạng. Chiếu phạm họp giòng tịnh chúng; Cõi không lễ đấng Thánh hiền. Mong thấu lòng thành; kính dâng hương báu.

Hương này: Trồng tự rừng giới, tưới bằng nước thiền-na; đẵn ở Tuệ viên, róc bằng dao giải thoát. Rìu búa sức người chẳng cần đến; hình, thế tự nó vẫn thiên nhiên. Hương báu tri-kiến tỏa lên; Kết thành đài mây sáng vở (4). Hương bay thơm lừng mọi chốn; Khói tỏa đượm ngát khắp trời. Nay dâng hương cúng dường, vào khóa lễ buổi sáng sớm.

** Kệ dâng hương

Rừng thiền sực nức nước trầm hương,

Vườn tuệ chiên-đàn giống khác thường;

Dao giới vê thành hình chóp núi;

Lò tâm tỏa ngát khắp mười phương.

** Kệ hiến hoa

Hoa lòng rộ nở khắp nơi nơi,

Mưa rắc hoa trời vẫn kém tươi;

Đóa đóa nâng lên dâng cúng Phật,

Muôn đời gió nghiệp thổi không rơi.

(Hiến hương hoa rồi bạch rằng)

Kính dâng hương hoa này,

Biến khắp mười phương cõi.

Cúng dường hết thẩy Phật,

Tôn Pháp, chư Bồ-Tát,

Vô lượng Thanh-Văn chúng,

Và hết thảy Thánh-Hiền.

Trỗi lên đài quang minh,

Khắp cả vô biên cõi;

Trong cõi Phật vô biên,

Thọ dụng làm Phật sự.

Khiến tất cả chúng sinh,

Đều phát tâm Bồ-đề.

Cúng dường rồi, dốc lòng kính lễ Thập phương vô thượng Tam-Bảo.

** Tâu Bạch

(Hồ quỳ bạch rằng)

Kính tâu: Thập phương Đại-Giác. Tam thế Hùng-Sư. Soi đuốc tuệ nẻo tối tăm; Thả bè từ nơi biển khổ.

Trộm nghĩ: Canh gà vừa dứt; bóng thỏ đang chìm. Khói mây phủ sông núi tan rồi; xe ngựa khắp đó đây nhộn nhịp. Tiếng Mai-hoa (5) trên lầu mới dứt; chén Trúc-diệp (6) trước cửa hầu tàn. Đong đưa mày liễu nắng ban mai; e thẹn mặt hoa ngưng móc sớm. Gặp buổi tươi sáng; thương kẻ ngu mê. Trong đêm giấc mộng đã lờ mờ; thức dậy trong lòng còn rạo rực. Mắt, tai mải theo thanh, sắc; mũi, lưỡi say đắm vị, hương. Nhà lửa nung nấu triền miên; sông ái đắm chìm mãi mãi. Mặc dầu sáng nay người thức tỉnh; cũng như đêm trước kẻ say mê. Chẳng lo sinh, già, ốm, chết lăm le; chỉ bận vợ, con, tiền tài trói buộc.

Các Phật-tử! Thân này chẳng vững; Mệnh cũng khó yên. Phàm kẻ trên đầu đội trời; tránh sao ánh mắt rơi đất. Một sớm xẩy tay mất mạng; muôn kiếp khó lại thân người. Cần phải mau mau gieo giống lành; đừng có khư khư tìm quả ác. Mọi người tỉnh gấp; ai nấy siêng tu. Dốc lòng lễ vô thượng Từ-Dung; trước mắt thấy Đại quang minh tạng. Đệ tự chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ buổi sáng.

Tâu bạch rồi, dốc lòng kính lễ Thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Sám hối tội căn mắt

(Lại hồ quỳ bạch rằng)

Đệ tử chúng con, dốc lòng sám hối! Kể từ vô thủy, vô lượng kiếp rồi. Bỏ mất bản tâm, chẳng theo chánh đạo. Đọa ba đường khổ, bởi sáu căn sai. Trước chẳng sám trừ, sau hối khó kịp. Nghiệp căn mắt ấy: Nhân ác nhìn kỹ, nghiệp thiện xem qua. Nhận lầm đốm hoa không, quên đi mất trăng thật. Ghét yêu nổi dậy, tốt xấu chen nhau. Mắt liếc sinh càn, lu mờ chánh kiến. Xanh đi trắng lại, tía phải vàng sai. Nhìn bao thứ tà, như người đui mắt. Gặp kẻ sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang. Đui mù chưa sinh, bản lai diện mục. Thấy người giầu có, mắt dán chằm chằm; gặp kẻ bần cùng, tảng lờ chẳng đoái. Nhà người mai táng, nước mắt dửng dưng; thân quyến thường vong, khóc tràn ra máu. Hoặc thấy Tam-Bảo, hoặc vào Già-Lam; gần tượng đối kinh, bỏ qua không đoái. Nhà Tăng điện Phật, trai gái gặp nhau, mắt trước mắt sau, mê hoang sắc dục. Chẳng kính Hộ-Pháp, chẳng sợ Long-Thần; thỏa mắt ham vui, từng không kính lễ. Những tội như thế, vô lượng vô biên. Từ căn mắt sinh, đọa vào địa ngục. Trải Hằng-sa kiếp, mới được thọ sinh. Dù được thọ sinh, lại bị mù chột. Nếu chẳng sám hối, khó được tiêu trừ. Nay đối trước Phật, hết đều sám hối.

Sám hối rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Dốc lòng Khuyến thỉnh

(Lại quỳ bạch rằng)

Khuyến thỉnh mười phương tam thế Phật,

Cùng chư Bồ-Tát Thánh-Hiền Tăng;

Mở lòng từ bi rộng vô cùng,

Độ hết chúng sinh lên bờ giác.

Khuyến thỉnh rồi, dốc lòng kính lệ thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Dốc lòng tùy hỷ

(Lại quỳ bạch rằng)

Con nay theo Phật sinh hoan hỷ,

Sớm hôm thành kính sám lỗi lầm;

Nấc thanh Thập-Địa (7) nguyện bước lên,

Bồ-Đề chân tâm không thoái chuyển.

Tùy hỷ rồi, dốc lòng kính lệ thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Dốc lòng hồi hướng

(Lại quỳ bạch rằng)

Chúng con hồi tâm nương Thánh-Chúng,

Rập đầu đảnh lễ Đức Từ-Tôn;

Nguyện đem công đức tới quần sinh,

Nhờ nhân tốt này thành chính-giác.

Hồi hướng rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Dốc lòng phát nguyện

(Lại quỳ bạch rằng)

Một - Nguyện mở toang đường chánh kiến.

Hai - Nguyện lau sạch hết bụi trần.

Ba - Nguyện thấy hình không luyến ái.

Bốn - Nguyện nhìn sắc chẳng quang tâm.

Năm - Nguyện đường mê cần thấy rõ.

Sáu - Nguyện mắt tuệ tự viên thành.

Bảy - Nguyện xoay đời mê hiện tại.

Tám - Nguyện mãi được bản lai minh.

Chín - Nguyện khi nhìn trừ mọi huyễn.

Mười - Nguyện thấy hết hoa đốm sinh.

Mười một - Nguyện nhìn xem mây "chướng' cuốn.

Mười hai - Nguyện chớp mắt nghiệp trong ngần.

Phát nguyện rồi, dốc lòng kính lễ thập phương vô thượng Tam-Bảo.

* Kệ vô thường buổi sáng

Vừa lúc màn đêm mở

Vầng hồng ló rạng dần

Đầu xanh chen tóc bạc

Má phấn đổi lần lần

Đâu biết xuân xanh ngắn

Còn tranh nghiệp quả nhân

Thân như băng trước nắng

Tựa đuốc gặp phong luân

Chớ mải làm người khách

Mau về với tính chân.

* Chú thích:

(1) Sáu niệm - Nhớ nghĩ về 6 thứ:

1. Niệm Phật.

2. Niệm Pháp.

3. Niệm Tăng.

4. Niệm Giới.

5. Niệm Thí (bố thí).

6. Nhiệm Thiên (nghĩ sinh cõi trời). Nghĩa là người quy-y Tam-Bảo rồi cần phải giữ giới, làm hạnh bố thí để mong cầu sinh Thiên. Chủ đích của giáo pháp này để dạy cho hàng Ưu-Bà-Tắc, như ông Tu-Đạt-Đa trưởng giả, khi Đức Phật còn tại Thế. Nhưng 6 niệm đây, theo ý của Trần-Thái-Tông, còn có ý nghĩa phải chuyên niệm nhớ nghĩ 6 chữ Hồng-Danh là "Nam Mô A-Di-Đà Phật".

(2) Bóng thỏ - Dịch nghĩa bóng của chữ "Thiềm Luân", là tên khác của mặt trăng, còn gọi là "Thiềm Thỏ" (Bóng đen của mặt trăng). Chữ Thiềm gọi đủ là Thiềm-Từ, có nghĩa là con cóc. Vì lý do Hằng-Nga ăn trộm thuốc tiến của Tây-Vương-Mẫu rồi chạy trốn vào trong mặt trăng mà hóa thánh đốm đen. Nên gọi mặt trăng là Thiềm-Luân, Thiềm-Thỏ hay Thiềm-Cung.

(3) Vầng ô- Dịch nghĩa bóng của chữ "Long-chúc", tên khác của mặt trời. Long-Chúc là tên vị thần núi Chung-Son. Còn gọi l2 "Chúc-Long" hay "Chúc-Âm", đều là tên riêng của mặt trời. Theo Sơn-Hải-Kinh thì phương Tây-Bắc của bầu trời, có một nước không có ánh mặt trời, rất tối tăm, vì có con rồng ngậm lửa lại phung cho sáng, nên có tên gọi mặt trời "Long-Chúc".

(4) Đoạn này nói dâng "Ngũ Phận Hương", tức 5 phần hương: 1. Giới-hương 2. Định-hương 3. Tuệ-hương 4. Giải-Thóat-Hương 5. Giải Thóat Tri-Kiến Hương. Dâng 5 phần hương để cúng đường 5 phần Pháp-Thân là Giới-Thân, Định-Thân, Tuệ-Thân, Giải-Thoát-Thân và Giải-Thoát Tri-Kiến Thân..

(5) Tiếng Mai-Hoa: - Dịch ở chữ "Mai-Hoa-Thanh", lấy từ chữ "Mai-Hoa-Dẫn". Mai-Hoa-Dẫn là tên một co khúc cổ điển cho ống sáo biểu diễn trong khi vui mừng chúc tụng. Ca khúc này nói đủ là "Giang-Thành Mai-Hoa-Dẫn".

(6) Chén Trúc-Diệp: - Trúc-Diệp là tên một thứ rượu, khi nấu có thêm gia-vị của lá cây trúc, nên gọi là "Trúc-Diệp-Tửu".

(7) Thập-Địa: - 10 thứ trụ-xứ của Bồ-Tát (3 thừa cộng thông): Theo Đại-Phẩm Bát-Nhã, Bồ-Tát đầy đủ được 10 ngôi địa này chứng được đạo Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác:

1. Can-Tuệ-địa

2. Tính-địa

3. Bát-Nhẫn-địa

4. Kiến-địa

5. Bạc-địa

6. Ly-dục-địa

7. Dĩ-tác-địa

8. Bích-Chi Phật-địa

9. Bồ-Tát-địa

10. Phật-địa

Đại-Thừa Bồ-Tát Thập-Địa:

1. Hoan-hỷ-địa

2. Ly-cấu-địa

3. Phát-Quang-địa

4. Diễm-Tuệ-địa

5. Cực-Nan-Thắng-địa

6. Hiện-Tiền-địa

7. Viễn-Hàng-địa

8. Bất-Động-địa

9. Thiện-Tuệ-địa

10. Pháp-Vân-địa.

---o0o---

Vi tính: Việt Dũng

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6418)
Theo cách nghĩ thông thường của người bên ngoài cửa chùa, Lục Hòa là một nguyên lý, một nguyên tắc hay qui tắc được áp dụng trong Tăng đoàn để có đời sống hòa hợp. Đơn giản mà nói, cách nghĩ ấy đúng. Nhưng dùng chữ “nguyên lý” hay “nguyên tắc” khiến người ta không khỏi có cảm nghĩ rằng để áp dụng Lục Hòa, tập thể xuất gia có vẻ như phải khép mình vào một thứ kỷ luật khắt khe, đầy khuôn khổ, phép tắc và thiếu tình cảm, giống như kỷ luật quân đội.
09/04/2013(Xem: 11676)
Nếu chúng ta cứ coi mình là trung tâm và chỉ quan tâm tới chính mình, sẽ dẫn tới sự thiếu tin tưởng, sợ hãi và nghi ngờ. Quan tâm tới lợi ích của người khác sẽ làm giảm sợ hãi và nghi ngờ, trong khi đó một tâm thức rộng mở và minh bạch làm phát sinh niềm tin và tình bằng hữu.
08/04/2013(Xem: 8242)
Hôm nay là ngày Mồng Một tháng Năm nhuần năm Mậu Dần, nhằm ngày 24 tháng 6 năm 1998 sau khi làm lễ Bố Tát (Uposatta) tụng giới nơi chánh điện, trở lại thư phòng, tôi bắt đầu viết cho quyển sách của năm nay nhan đề là: Sống và Chết theo quan niệm của Phật Giáo.
08/04/2013(Xem: 8860)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
08/04/2013(Xem: 6038)
Sáng nay, tôi đang rửa chén đoại trong quán, Thiện Đạt, một Phật tử công quả tại Chùa hớt hải chạy qua quán báo tin: - Anh Thị Chơn ơi! Anh có biết là Thượng Tọa Thiện Thông đã bị đưa vào nhà thương rồi chưa? - Chuyện gì vậy ? Tôi hỏi.
08/04/2013(Xem: 5502)
Vô thường không phải là một điều xấu, nó cũng có mặt tốt: nếu hạnh phúc không tồn tại mãi mãi, thì sự bất hạnh cũng không vĩnh cửu. Khi hết hạnh phúc, người ta bất hạnh; và người ta cũng trở nên hạnh phúc khi hết bất hạnh. Đi từ trạng thái này qua trạng thái kia xảy ra tự nhiên. Không phải hãm lại sự chuyển động và biết nắm lấy những sự vật như chúng đến, . . .
08/04/2013(Xem: 17031)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 22980)
Quyển sách không nhằm vào chủ đích phân tích những gì trong kinh điển mà đúng hơn là để nhắc nhở chúng ta hãy nên nhìn thẳng vào bản chất của chính mình và của mọi vật thể chung quanh hầu giúp chúng ta biết ứng xử thích nghi hơn với cái bản chất ấy của chúng và để giúp chúng ta trở thành những con người sáng suốt, hoàn hảo và an vui hơn. Bản dịch sang tiếng Việt này được dựa vào ấn bản tiếng Anh của Rod Bucknell và tiếng Pháp của Jeanne Schut trên đây.
08/04/2013(Xem: 14463)
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc.
08/04/2013(Xem: 27095)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Ðức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]