Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Chín: Viếng thăm Tích Lan

11/03/201104:02(Xem: 7458)
Chương Chín: Viếng thăm Tích Lan

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG CHÍN: VIẾNG THĂM TÍCH LAN

I.

Chúng tôi đã quyết định viếng thăm đảo Tích Lan theo lời mời khẩn cấp của các vị chức sắc lãnh đạo Phật giáo xứ ấy, và đã bận rộn suốt một tháng để chuẩn bị lên đường.

Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, chúng tôi xuống tàu chạy miền duyên hải của công ty hàng hải Anh Ấn để đi Tích Lan.

Ngoài bà Blavatsky, ông Wimbridge và tôi, phái đoàn còn gồm có bạn Damodar và bốn người Ấn Độ khác. Hình như phái đoàn chúng tôi là những hành khách duy nhất trên tàu. Trong chuyến đi này, nhờ chiếc tàu sạch sẽ, các sĩ quan hăng hái vui vẻ dễ mến, tiết trời quang đãng và những hải cảng ghé dọc đường đầy vẻ thích thú hấp dẫn, nên chúng tôi cảm thấy vui thích như được đi nghỉ mát trên tàu riêng của mình.

Bà Blavatsky tinh thần đầy hứng khởi vui tươi, nói chuyện trào phúng khiến cho cả tàu đều vui nhộn. Vốn là người thích chơi bài tây, có khi bà ngồi suốt nhiều giờ mỗi ngày để đánh bài tiêu khiển với các sĩ quan trên tàu, ngoại trừ viên thuyền trưởng Wickes, vì quy luật hàng hải ngăn cấm vị thuyền trưởng chơi bài với các viên chức trực thuộc.

Viên thuyền trưởng già là một người đẫy đà, vui tính, và không có mảy may tin tưởng vào các vấn đề tâm linh hay huyền bí. Ông ta thường nói đùa với bà Blavatsky về những quan niệm của chúng tôi với một sự dốt nát về toàn thể vấn đề đến mức làm cho chúng tôi phải bật cười.

Ngày nọ, bà Blavatsky đang chơi bài một mình, trò chơi đơn độc mà bà thích thú nhất, thì vị thuyền trưởng bước vào và yêu cầu bà hãy nói tiên tri số mạng của ông ta bằng một quẻ bài. Thoạt tiên bà từ chối, nhưng sau cùng bà bằng lòng, và bảo ông ta hãy xáo trộn những quân bài rồi chọn và lật bài lên bàn.

Sau khi xem, bà nói lẩm bẩm:

– Thật là lạ lùng, có thể nào lại như vậy!

Vị thuyền trưởng hỏi:

– Bà nói thế nghĩa là sao?

– Đó là những gì hiện lên trên các lá bài. Ông hãy xáo bài lần nữa.

Vị thuyền trưởng làm y theo lời, khi các quân bài được chọn và lật ngửa lên thì dường như cho thấy kết quả cũng giống y như lần trước, vì bà Blavatsky nói rằng quẻ bài tiên tri một chuyện thật vô lý đến nỗi bà không muốn nói cho ông ta biết.

Viên thuyền trưởng khẩn khoản yêu cầu, bà mới nói rằng theo quẻ bài cho biết thì ông ta sẽ không còn đi biển được bao lâu nữa; ông sẽ được cấp trên đề nghị nhận một việc làm trên đất liền, và sẽ giải nghệ.

Viên thuyền trưởng to béo cười lớn, và nói cho bà biết rằng đó chính là điều mà ông ta đang mong ước. Còn nói về việc từ bỏ nghề đi biển, thì không gì làm cho ông thích thú hơn, nhưng ông không thấy có chút triển vọng nào sẽ được sự may mắn đó.

Đến đây không ai nói thêm điều gì nữa, ngoài việc viên thuyền trưởng lặp lại lời tiên tri ấy cho một viên sĩ quan nghe, rồi qua ông này, nó trở nên một đề tài trào lộng chọc cười cho cả tàu!

Nhưng chưa phải là hết. Một hay hai tháng sau khi chúng tôi trở về Bombay, bà Blavatsky nhận được một bức thư của thuyền trưởng Wickes, trong đó ông nói ông phải xin lỗi bà về thái độ của ông đối với quẻ bài, và ông phải thú nhận rằng lời tiên tri ấy đã được thực hiện. Sau khi chúng tôi đổ bộ lên đảo Tích Lan, ông tiếp tục chuyến đi đến Calcutta. Khi tàu cặp bến, ông được đề nghị nhận lấy chức vụ hải quan ở cảng Karwar. Ông bằng lòng nhận và đã đi chuyến trở về như một hành khách trên chính chiếc tàu của ông!

Đây là một trường hợp điển hình trong nhiều quẻ bài tiên tri khác nữa của bà Blavatsky. Tôi không nghĩ rằng những lá bài có ăn nhằm gì đến lời tiên tri ấy, trừ phi chúng có thể đã tác động như một cái khoen liên lạc giữa bộ óc linh thị của bà và cái hào quang tâm linh của vị thuyền trưởng, và bởi đó nó khích động khả năng thần nhãn của bà để nhìn thấy việc tương lai. Tuy nhiên, dù bà có năng khiếu đó, tôi không thấy bà đã từng tiên liệu trước một việc nào trong số những biến cố đau thương và tổn hại thanh danh đã xảy đến cho bà do âm mưu của những kẻ phản bội và những kẻ thù nghịch đầy ác ý. Hoặc nếu có, bà cũng không hề nói với tôi hay với bất cứ một người nào, theo chỗ tôi được biết.

Có lần ở Bombay, bà bị mất trộm một kỷ vật đáng giá, nhưng bà vẫn không thể tìm ra kẻ gian, cũng không trợ giúp được nhân viên cảnh sát trong việc truy nã thủ phạm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 3353)
Khi nghĩ về Đức Phật, là Phật Tử, không ai lại không nhớ về bốn thánh tích quan trọng. Đó là vườn hoa Lâm Tỳ Ni (Lumbini Nava), dưới cây hoa Vô Ưu, thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) nay thuộc nước Nepal phía Bắc Ấn Độ, nơi Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhartha Gautama) đản sanh. Thứ hai là Bồ Đề Đạo Tràng (Boddha Gaya), tại Buddh Gaya, nay thuộc tiểu bang Bihar, miền Bắc Ấn Độ, nơi Đức Phật thành đạo. Thứ ba là vườn Lộc Uyển (Migadaya nay gọi là Sarnath thuộc xứ Utta Pradesh) (1), nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên . Thứ tư là Câu Thi Na(Kusinagara), nơi Đức Phật nhập Niết Bàn . Nhân ngày Đức Phật Thành Đạo xin sơ lược đôi nét về Bồ Đề Đạo Tràng để ghi nhớ nơi Đức Từ Phụ sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định đã thành bậc vô thượng chánh đẵng chánh giác. Kể từ đó sau 49 năm Ngài thuyết giảng kinh pháp đà để lại cho nhân loại một kho tàng kinh điển vĩ đại quí giá.
30/12/2010(Xem: 2763)
Bên cạnh tu viện Larung Gar đang bị Trung Cộng triệt phá, cung điện khổng lồ Potala được coi là một kỳ quan không chỉ của dân tộc Tây Tạng mà còn của toàn nhân loại. Nằm ở trái tim của thành phố Lhasa, thủ phủ Tây Tạng, cung điện Potala được coi là viện bảo tàng sống động nhất cho văn hóa Tây Tạng và là biểu tượng quyền lực gắn liền với các đời Tạng Vương và Đạt Lai Lạt Ma.
29/12/2010(Xem: 8537)
51 Địa Danh Bạn Cần Đến Thư Giản và Thưởng Ngoạn
26/12/2010(Xem: 4031)
Ngày 1 tháng 4 thì phải, tôi ghé chân ở Shangri-la, một miền đất khuất nẻo của Vân Nam. Để đến được nơi này, từ Lệ Giang, xe phải đi mấy giờ liền qua một sơn đạo chênh vênh ở độ cao chóng mặt. Tôi đã thấy gì? Trời ạ, giữa một nhân gian tế toái gồm đủ thiên hình vạn trạng của bao thứ bào ảnh ảo tượng, tôi lại bất ngờ nhận ra mình đang hiện hữu ở một nơi chốn mà mọi thứ đều ở mức tối giản.
16/12/2010(Xem: 5523)
Một cư sĩ học giả viết trong một quyển sách đã xuất bản, trong đó có lập lại một lời nói của đức Phật không được đúng như trong kinh đã ghi, điều này có thể tạo cho Phật tử hiểu lệch lạc về đạo Phật dẫn tới một đạo Phật mê tín. Họ nói Đức Phật nói rằng: “… Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi Thánh địa này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lànhvà nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùngtại một trong những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn..”
28/10/2010(Xem: 3807)
Pháp Hội Thủy Lục khởi đầu từ đời Vua Lương Võ Đế. Nhà vua phát tâm Bồ Đề thành kính cung thỉnh Hòa Thượng Chí Công định chế nghi thức lập đàn tràng “Thủy Lục” để cầu siêu cho các oan hồn uổng tử. Các chiến sĩ trận vong trong chiến tranh, xả thân báo quốc, nhưng hương hồn của họ vất vưỡng không nơi nương tựa, những cô hồn vô chủ lang thang khắp nơi, những người chết vì bị trúng đạn, tai nạn trên không, dưới nước, đất bằng, chết vì bệnh dịch, chết oan, chết đuối trên đường vượt biển, các thai nhi sản nạn v.v… Chúng ta đều tác lễ cầu siêu cứu độ tất cả, giúp họ sớm thác sanh về cõi giới an lành. Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, đều hàm triêm lợi lạc.
26/10/2010(Xem: 4958)
(VietNamNet) - Đó là chuyến đi Tây Tạng của tôi và nhà thơ Văn Cầm Hải từ ngày 17/9 đến 25/9. Có nhiều cách đến Tây Tạng. Chúng tôi chọn con đường từ Hà Nội đi Nam Ninh, từ Nam Ninh bay sang Thành Đô, rồi từ Thành Đô bay lên Lhasa.
19/10/2010(Xem: 5298)
Lục tổ điện được xây lại vào năm Minh Hoàng Trì thứ 3, Canh Tuất (1490), Nam Hoa Thiền Tự trùng tu lần cuối vào năm Quý Dậu (1933). Trong điện này hiện nay vẫn còn tôn thờ nhục thân của Lục tổ Huệ Năng (sinh đường Trinh Nguyên năm 12, tịch Đường Khai Nguyên năm đầu 638-713), cùng với nhục thân ngài Đại sư Hám Sơn và ngài Đại sư Đan Điền. Nam Hoa Tào Khê – Bửu Lâm Đạo Tràng, nằm cách thành phố Thiều Quan thuộc miền đông nam Trung Quốc 25 km (15,5 dặm), tại thị trấn Tào Khê, huyện Khúc Giang. Địa danh này nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Đông, cách sông Bắc Giang vài km, trước đây là một tuyến giao thương giữa miền trung Trung Quốc và Quảng Châu.
26/09/2010(Xem: 6649)
Phật Quốc Ký Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567