Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường đi đến giải thoát sanh tử

06/07/201618:27(Xem: 8698)
Con đường đi đến giải thoát sanh tử

Con đường
đi đến giải thoát sanh tử

Thích Như Điển

Khi tu học theo Phật Giáo, không ai trong chúng ta là không mong muốn đạt đến quả vị nầy, nhưng đường đi thì có trăm ngàn cách và sự thể hiện của hành giả phải như thế nào qua cách hành trì của mình để đạt đến sự giác ngộ, giải thoát của mỗi người lại khác nhau. Đây là đề tài mà chúng ta cần nên mổ xẻ để định hướng cho lối đi nầy.

Niết Bàn cũng còn gọi là Vô Ngã hay cũng còn gọi là Hưu Tức, nghĩa là dừng lại tất cả mọi trạng thái của hơi thở. Niết Bàn không là một nơi chốn để đến hay để đi, mà Niết Bàn là một trạng thái không còn sanh diệt nữa. Do vậy khi đọc trong Kinh Nam Tryuền chúng ta thường hay thấy các vị A La Hán sau khi chứng Đạo thường hay tuyên bố rằng: “Ta việc sanh đã hết, những phạm hạnh đã lập, việc nào cần làm ta đã làm xong và ta biết chắc một điều là kiếp sau ta không còn tái sanh nữa”. Tuyên bố một câu dứt khoát như vậy, có nghĩa là người ấy sẽ không còn bị sự sanh diệt chi phối nữa. Lời nầy cũng đã được Thái Tử Tất Đạt Đa khi sinh ra tại vườn Lâm Tỳ Ni cách đây 2640 năm về trước, sau khi nói câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” và kế tiếp đó Ngài đi bốn hướng và nói 4 lần câu: “Ta việc sanh đã hết, những phạm hạnh đã lập, việc nào cần làm ta đã làm xong và ta biết chắc một điều là kiếp sau ta không còn tái sanh nữa”. A La Hán được định nghĩa là: Vô Sanh, Vô Học hay Sát Tặc. Nghĩa nào cũng có ý là không còn tái hiện nữa, dứt bặt mọi sự đến đi, còn mất hay đối đãi nữa. Nhiều vị đã chứng A La Hán ngay trong đời sống nầy, chứ không nhứt thiết phải chờ đến hơi thở cuối cùng, mới nhập vào trạng thái Vô Sanh. Do vậy Thiền Sư Nhất Hạnh thường nói rằng: “There is no way to Nirwana, Nirwana is the way”(không có con đường nào dẫn đến Niết Bàn, mà Niết Bàn chính là con đường). Ai đang thực hành con đường giải thoát sanh tử, thì người ấy cũng có thể nói rằng: “Họ sẽ được dẫn  đến Niết Bàn an lạc”.

Đại Thừa thì định nghĩa Niết Bàn khác hơn một chút. Ai không chấp thủ, không chấp ái và không chấp ngã, thì đó là Niết Bàn. Những gì là Thủ, là Ngã, là Ái …thì chúng ta đã học nhiều rồi, nhưng chúng ta đã liễu ngộ được chăng? Nói về chấp thủ, chỉ cho mình là đúng, còn kẻ khác thì sai. Câu chuyện bắt đầu như sau:

Một hôm hai Ông Bà già cãi với nhau và ai cũng bảo rằng người kia điếc, chứ còn mình thì không điếc và cái không điếc ấy mới là đầu đuôi câu chuyện.

-Ông mới là người điếc. Bà bảo thế.

-Không! Bà mới là người điếc. Ông hô lớn lên như vậy. Rồi một hôm Ông bảo Bà rằng:

-“Bà hãy đứng xa tôi 10 mét” và Ông bắt đầu gọi Bà đến ba lần, nhưng Ông chẳng nghe tiếng trả lời. Tiếp theo Ông đề nghị rằng:

-“Bây giờ mình nên đứng gần thêm chừng 5 mét” và gọi lớn tên Bà ba lần nữa, nhưng  Ông cũng  không nghe tiếng trả lời. Lúc ấy Ông nghĩ rằng: Bà nầy sao mà điếc quá vậy và Ông tiến gần đến cách Bà chỉ còn có ba mét nữa thôi. Sau khi gọi Bà lần thứ ba thì Bà trả lời Ông rằng: “Tôi đã trả lời Ông ba lần rồi tại sao Ông vẫn gọi hoài như vậy”…….(lời bàn xin để dành cho quý Vị)

Còn chấp Ngã thì như thế nào? Trong Kinh Tạp A Hàm có kể nhiều câu chuyện khi Đức Phật còn tại thế rất hay như sau: Một hôm Ngài a Nan bạch Phật rằng:

-Kính bạch Đức Thế Tôn! Con không biết thế nào là Ngã và thế nào là Ngã sở? Kính mong Đức Thế Tôn dạy cho.

Đức Phật từ tốn bảo Ngài A Nan rằng:

-Con hãy lấy hai bàn tay vỗ mạnh vào nhau, sau đó Đức Phật hỏi.

-Nầy A Nan, Con có nghe gì chăng?

-Bạch Thế Tôn, Con có nghe.

-Nghe gì?

-Bạch Ngài! âm thanh của hai bàn tay vang lên.

-Đúng vậy! Nhưng âm thanh ấy trước, trong và sau khi Ông nghe được thì nó ở đâu? Nó có hình tướng chăng?

-Bạch Thế Tôn, không! Con thấy âm thanh ấy trước đó nó không có và sau đó nó cũng chẳng đi về đâu cả.

Thế Tôn bảo rằng: Ngã cũng như thế ấy. Nó chẳng thật có như tiếng vỗ của hai bàn tay thôi.

-Còn Ngã sở là như thế nào? Bạch Thế Tôn.

Phật bảo: A Nan hãy nhìn bó củi kia có hình tướng chăng?

-Bạch Ngài, có.

-Ông hãy đem lửa đốt nó cho ta. Và sau khi Ngài A Nan đốt bó củi ấy đi rồi thì Đức Phật bảo rằng:

-Nầy A Nan, bó củi ấy bây giờ ở đâu rồi?

-Bạch Thế Tôn! Chỉ còn đống tro tàn, chứ không còn hình tướng là một bó củi nữa.

Cũng như thế ấy, Thế Tôn dạy rằng: “Lâu nay các Ông vẫn luôn cho rằng, cái nầy là của ta, cái nầy thuộc về ta, nó do ta làm chủ v.v… Nhưng cuối cùng mọi vật có hình tướng trên thế gian nầy đều không có tướng thật của nó. Thật tướng của vạn pháp là “Không”. Không ấy là Không gì cả, không ấy là hiện tượng đổi thay, nhưng mắt trần của chúng sanh duyên vào sự chấp Thủ, chấp Ngã và chấp Ái nên mới sinh ra như vậy. Ai không còn chấp ba món nầy, người ấy sẽ tận hưởng Niết Bàn an lạc ngay trong đời nầy.

Những câu chuyện nầy nhắc lại cho chúng ta thấy về Ngã và Pháp, chấp và không chấp cũng như pháp Duyên Sanh như sau:

Một hôm Ngài Asita đi khất thực ngoài làng. Ngài Xá Lợi Phất gặp Ngài Asita và hỏi rằng:

-Ngài tu theo pháp môn nào và Thầy của Ngài là ai vậy?

Thầy ta dạy ta rằng: “Tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh, tất cả các pháp đều do nhơn duyên diệt và tự tánh của các pháp là không”. Ngài Asita (A Thuyết Thị) trả lời như vậy.

Le khai mac An Cu Quang Duc ky 17 (69)Ngài Xá Lợi Phất sau khi nghe câu nói ấy liền chứng quả Tu Đà Hoàn liền, vì lâu nay ở trong phái ngoại đạo của Ngài, chưa có vị Thầy nào dạy được Ngài cách nhìn về vạn pháp như vậy và tiếp đó Ngài Asita bảo rằng:

Ta chỉ biết có vậy, còn Ngươi muốn hiểu thâm sâu hơn thì hãy đến với Thầy ta, chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni sẽ dạy cho Ngươi thêm nữa. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất về báo cho Ngài Mục Kiền Liên biết tin vui nầy và cả hai Ngài đều dẫn đệ tử của mình đến quỳ dưới chân Đức Phật để được xuất gia và làm những vị Tỳ Kheo chơn chính.

Qua những dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy rằng: Muốn hiểu được Phật thì phải hiểu Pháp. Kẻ nào hiểu được Pháp thì kẻ ấy sẽ hiểu được Phật. Phật Pháp Tăng là ba ngôi báu, nhưng Pháp quan trọng hơn cả hai ngôi kia. Vì Phật ai cũng có thể thành, như Đức Phật đã từng dạy rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Tăng ở vào một thời điểm cuối của kiếp hoại sẽ không còn nữa, nhưng Pháp ấy sẽ không bị lệ thuộc vào quá khứ, hiện tại hay vị lai, mà Pháp ấy vẫn luôn tồn tại trên thế gian nầy.

Pháp Duyên Sanh có nghĩa là: “Cái nầy sanh nên cái kia sanh, cái nầy diệt nên cái kia diệt và tự tánh của các Pháp vốn là không”. Ai hiểu và thực hành được điều nầy, kẻ ấy sẽ hiểu Phật và sẽ đạt đến được con đường giác ngộ, giải thoát, vốn không xa. Điều quan trọng ở đây là phải chứng thực nơi Pháp và phải tỏ ngộ nơi Pháp thì Phật Tánh, Chơn Tâm  và Đại Định mới hiển bày.

Xin đóng góp một bài ngắn cho Trường Hạ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi -Tân Tây Lan năm nay (2016) tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức ở Melbourne để góp phần xiển dương giáo lý Phật Đà trên vạn nẻo đăng trình của người con Phật xuất gia cũng như tại gia, dầu cho sống ở bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu nầy.

Viết xong vào ngày 30 tháng 4 năm 2016, tại Tu Viện Đức Mẹ Hiền, New Jersey, Hoa Kỳ.
Thích Như Điển

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 10352)
Thứ bẩy vừa qua, 15 tháng ba năm 2008, Chư Tăng Ni và Phật tử chùa Phật Tổ, tỉnh Long Beach miền Nam California đã được hưởng một ngày mưa pháp. Đó là chặng dừng chân trong lịch trình hoằng hóa năm 2008 tại Canada và Hoa Kỳ của TT Phương trượng chùa Viên Giác Đức quốc và phái đoàn từ Âu châu, Úc châu và Mỹ châu. Năm nay, phái đoàn có sự tham gia của: TT Thích Như Điển, HT Thích Kiến Tánh, TT Thích Đổng Văn, ĐĐ Thích Giác Trí, Sư chú Hạnh Bổn (Đức quốc); TT Thích Thái Siêu, TT Thích Minh Dung, TT Thích Hạnh Tuấn, ĐĐ Thích Hạnh Đức, ĐĐ Thích Thánh Trí (USA); ĐĐ Thích Nguyên Tạng (Úc châu) và ĐĐ Thích Viên Giác (Na Uy).
27/03/2013(Xem: 17455)
Bộ Luận Đại Trí Độ do Ngài Bồ Tát Long Thọ tạo tác, nhằm tuyên bày giáo nghĩa thậm thâm vi diệu của Pháp Đại Thừa Bát Nhã Ba La Mật. Bộ Luận Đại Trí Độ này được Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập phiên dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán. Trong thời gian phiên dịch, Ngài đã nhóm họp 500 vị Thiện hữu tri thức, cấm túc tại Tiêu Diêu Viên Đường ở Lâm Giang, nghiên cứu huyền chương, khảo chánh và lược dịch từ 1000 quyển, cô đọng thành 100 quyển. Bộ Luận Đại Trí Độ tiếng Việt gồm 5 tập, mỗi tập 20 quyển là bản dịch từ chũ Hán của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không. Sau gần 5 năm làm việc liên tục mới phiên dịch hoàn tất từ Hán Văn ra Việt Văn với sự trợ giúp nhuận bút và biên tập của Pháp Sư Thích Thiện Trí (Giáo Sư của Giảng Sư Cao cấp PGVN & Học viện PGVN) và Cư Sĩ Tâm Viên Lê Văn Lâm.
20/10/2012(Xem: 3914)
Vào thời Đức Phật còn tại thế, Tăng đoàn dưới sự hướng dẫn của Ngài, sau nhiều tháng mùa nắng đi HOÁ DUYÊN khắp nơi, đến 3 tháng mùa mưa ( mùa hạ )ở Ấn Độ, Đức Phật quy tụ tăng đoàn lại một trụ xứ để THÚC LIỄM THÂN TÂM , TRAO DỒI GIỚI ĐỊNH TUỆ gọi là AN CƯ KIẾT HẠ, . Vừa thể hiện lòng Từ Bi, vì sợ mùa mưa là mùa côn trùng sanh sôi nẩy nở, nếu Tăng đoàn đi ra ở ngoài nhiều sẽ giẫm đạp lên gây tổn mạng chúng, vừa thực hiện tinh thần Trí Tuệ vì có thời gian vân tập lại với nhau, để quán chiếu lại tự thân,
13/08/2012(Xem: 5109)
Mùa An cư ba tháng, một tháng đã trôi qua rồi, quý vị tự kiểm điểm lại xem đã làm được gì và hai tháng còn lại sẽ làm gì. Một năm Phật dành chín tháng để chúng ta đi giáo hóa, ba tháng an cư tĩnh tâm để trưởng dưỡng đạo tâm, tăng cường đạo lực; vì chín tháng đi giáo hóa, tiếp cận với xã hội có nhiều điều phức tạp làm đạo tâm chúng ta bị sa sút. Thật vậy, khi đi giáo hóa gặp việc này việc khác, gặp người tin Phật, cũng gặp người chống phá Phật, khiến chúng ta phải đối phó, làm tâm Bồ-đề chúng ta bị suy yếu. Vì vậy chúng ta cần nuôi lại tâm Bồ-đề cho vững. Trong ba tháng an cư, chúng ta ngồi yên coi chín tháng mình đã làm gì, ở đâu, tiếp xúc với ai và cách đối phó của chúng ta có thích hợp với đạo hay không. Thích hợp với đạo là giữ được tâm thanh tịnh, còn không thích hợp với đạo thì phiền não sanh khởi, kiểm điểm lại thấy điều nào còn kém, phải sửa đổi.
23/07/2012(Xem: 5617)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm nay được tổ chức tại Chùa Bát Nhã - Văn Phòng Của GHPGVNTNHK, Hòa Thượng Thích Nguyên Trí phát tâm bảo trợ. Cũng như những năm trước, đông đảo Chư Tôn Đức Tăng Ni vân tập về trường hạ An Cư tạo thành quang cảnh nhộn nhịp như đàn chim khắp bốn phương bay về tổ ấm. Người mang xách, kẻ kéo vali quay quần bên nhau thăm hỏi, vui mừng như ngày hội. Từ Ôn Thiền Chủ, Ban Chức Sự trường hạ cho đến quí Thầy Cô, Sa Di khu ô đuổi quạ, đều hiện rõ nét mặt vui tươi, hân hoan, chào đón bằng ánh mắt niềm nở, nụ cười tự nhiên, thanh thản. Nhiều chiếc xe đổ người trước cổng tam quan, ai cũng nhìn thấy câu biển ngữ nền vàng chữ đỏ...
03/07/2012(Xem: 2694)
Mùa Hạ là mùa Chư Tăng Ni câu hội nơi một Đạo Tràng an cư, hạn chế ngoại duyên, thúc liễm tu tập. Thời gian này, Chư Tăng Ni khắp nơi trên thế giới đang an cư ở những trú xứ thích hợp. Đây là lần đầu tiên tôi đến tham dự Trường Hạ Bát Nhã do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Hoa Kỳ tổ chức với sự hiện diện của Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội cùng với 201 Tăng Ni trên khắp đất nước Hoa Kỳ, Canada và Việt Nam đồng về an cư.
24/06/2012(Xem: 9607)
Quay về nương tựa thắng duyên, Vào trong cửa Tịnh, lìa miền trần ô. Hòa trong thời khóa: “nam mô”, Vơi niềm tục lụy, chồi Bồ Đề sanh. Thích Minh Tuệ
23/06/2012(Xem: 6957)
Khóa An Cư Kiết Hạ Tại Chùa Bát Nhã Do GHPGVNTNHK Tổ Chức Từ 19-30/6/2012
19/06/2012(Xem: 4260)
Một thời, Thế Tôn trú ở Icchànangala, tại khóm rừng ở Icchànangala. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: Ta muốn sống độc cư Thiền tịnh trong ba tháng, không tiếp một ai, trừ một người đem đồ ăn lại. Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
19/06/2012(Xem: 5677)
Không như các tôn giáo khác có thể có những cấm điều hay định chế được thiết lập sẵn dựa theo chủ quan của vị giáo chủ, mọi định chế của Phật giáo đều xuất hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567