Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hàn Quốc : Huyền thoại Thạch Quật Am, Phật Quốc Tự

17/08/201412:00(Xem: 7631)
Hàn Quốc : Huyền thoại Thạch Quật Am, Phật Quốc Tự

1024px-Korea-Gyeongju-Landmarks-Montage-01Hàn Quốc : Huyền thoại Thạch Quật Am, Phật Quốc Tự

 

Vào thời đại Silla (Tân La) ở Hàn Quốc, khoảng hơn Nghìn năm trước, có một cậu bé tên là Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) sống ở làng Moryang. Vì hoàn cảnh gia đình gặp phải khó khăn về kinh tế, cho nên cậu phải rày đây mai đó làm thuê mướn để đổi lấy bát cơm manh áo và phụ giúp gia đình. Một hôm, sau khi dự buổi thính pháp đàm của một vị Pháp sư giảng giáo lý Phật đà, cậu liền về nhà thuyết phục mẹ mình cúng dường mảnh ruộng vườn, tài sản duy nhất của gia đình để tích phúc đức.

 

Tuy nhiên, thay vì được hưởng phúc, nhưng chẳng may cậu bé Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) lại bị đột nhiên lìa đời. Ngay dịp này, hàng xóm trong làng, gia đình Tể tướng lại hạ sinh một công tử khôi ngô tuấn tú. Giờ khắc cậu công tử chào đời, trên hư không lại có âm vang những câu: “"Hãy để cậu bé Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) tái sinh làm con nhà tể tướng. Nhờ gia đình chăm sóc đến nơi đến chốn". Điều kỳ lạ là khi lọt lòng mẹ, cậu công tử yêu quý của nhà Tể tướng có hai chữ: “Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城)”. Tin tưởng sự luân hồi nghiệp báo tái sinh, Tể tướng liền truyền lệnh mời mẹ ruột của cậu bé Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) về nhà mình và cùng nuôi nấng công tử.

 

Sau này khi công tử khôn lớn trưởng thành, để báo đáp công ơn sinh thành của hai bên cha mẹ hiện tiền và cha mẹ kiếp trước, công tử đã xây dựng ngôi Già lam Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암).

 

Câu chuyện trên đã đi vào huyền thoại nhân gian Hàn Quốc mãi truyền tụng rằng: “cậu bé Kim Đại Thành (Kim Dae-seong 김대성-金大城) đã thác sinh vào nhà Tể tướng, một công tử ngoan hiền yêu quý, lại có tâm hiếu thảo với song thân. Công tử đã phát tâm kiến tạo ngôi Già lam Phật địa lấy danh hiệu là Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và xây dựng ngôi danh lam Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암) để hồi hướng phúc báu đến song thân hiện tiền và song thân kiếp trước. Việc Phật sự của Công tử nhằm báo ân đức của song thân hiện tại và quá khứ cha mẹ tiền kiếp.

 

Người dân Tân La (Silla) tin rằng núi Thổ Hàm San (Tohamsan-토함산-吐含山) nơi Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암) tọa lạc là một địa thế linh thiêng mầu nhiệm, vì vậy hai ngôi Danh lam Cổ Tự này bảo tồn gần như nguyên vẹn giữa cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Điểm đặc trưng của hai công trình này là được kiến thiết và đẽo khắc hoàn toàn bằng đá hoa cương nhưng lại mềm mại và tự nhiên như được nặn bằng đất.

 

Thời tiết ở Ấn Độ vô cùng khắc nghiệt bởi sự nóng bức khi hè về, người ta thường đào hang trong các vách núi để làm nơi sinh sống. Chùa Ajiṇṭhā ở huyện Aurangabad của Maharashtra, Ấn Độ và Chùa Vērūḷa, phía tây bắc của thành phố Aurangabad ở Ấn Độ là các chùa tiêu biểu cho văn hóa dựng chùa trong hang đá “Seokgulsawon”. Nét văn hóa kiến trúc Phật giáo này đã được du nhập vào Hàn Quốc thông qua Trung Quốc. Điều khác biệt là người Tân La (Silla) sử dụng đá hoa cương để dựng hang đá nhân tạo. Và pho tượng phật đá chính trong hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암) được đánh giá có vẻ đẹp điêu khắc không kém gì những pho tượng danh tiếng trên thế giới. Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) nổi tiếng với Bảo tháp Thích Ca (Seokgatap) hay còn gọi là Tháp Vô Ảnh (Muyeongtap) và Tháp Đa Bảo (Dabotap). Công lao của người thợ xây tháp Vô Ảnh được ghi nhận qua bản nhạc giành cho đàn tranh sáu dây Geomungo.

 

Thời thanh niên học sinh thì người Hàn ai chả một lần cùng bạn bè trong trường trong lớp cùng nhau đi thực tế đến Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암). Cảm giác lúc đó là thật thất vọng vì chỉ được ngắm nhìn di tích lịch sử này qua lớp kính bảo vệ và so với tiếng tăm lẫy lừng thì khu di tích này quá nhỏ bé. Nhưng tới khi trưởng thành, quay lại nơi này thì cảm giác của người tham quan sẽ khác hẳn, nhất là tới đây vào những lúc yên tĩnh vắng người. Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암) vốn dĩ không phải là khu du lịch, đây là Danh lam thánh tích, Già lam Phật địa, nơi con người tu tâm dưỡng tính, tự suy ngẫm và nhìn nhận lại bản thân mình cũng như những người xung quanh.

 

Hãy một lần đứng yên lặng trước ngôi Già lam và giao cảm với tấm chân tình của người thợ đẽo đá thời Tân La (Silla) nghìn năm trước, chúng ta sẽ phần nào cảm nhận được giá trị đích thực của ngôi Cổ tự. Đây là những nét đặc trưng của Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암).

 

* Ca khúc “Bulgeun Ggot Bulgeun Maeum” (Hoa đỏ tấm lòng son) / nhóm nhạc thiếu nhi “Những đứa trẻ ngoan” (Kim Seong-guk sáng tác) * Chương 4 nhạc phẩm Muyeongtap (Tháp Vô ảnh) giành cho đàn tranh sáu dây Geomungo / Jeong Dae-seok sáng tác và biểu diễn

 

Chương 1 nhạc phẩm Chimhyangmu “Trầm Hương Vũ” / Hwang Byeong-gi (đàn tranh Gayageum.

 

Bulguksa hay Phật Quốc tự là một ngôi chùa ở tỉnh Bắc Gyeongsang của Hàn Quốc. Đây là nơi có 7 quốc bảo Triều Tiên, bao gồm các tháp đá Dabotap (Tháp Đa Bảo) và Seokgatap (Tháp Thích Ca), Cheongun-gyo (Thanh Vân kiều), và tượng Phật bằng đồng dát vàng. Ngôi chùa này được xếp loại danh lam thắng cảnh và lịch sử số 1 của Hàn Quốc.

 

Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암), hai ngôi Cổ tự này đều có sự hiện diện Trụ trì và góp phần gìn giữ di sản Văn hóa thế giới của Hậu duệ Thánh vương Lý Thái Tổ, đời thứ 30, đó là Thiền sư Nguyệt Nam hiệu Sương Hải đường (1920-1991).

 

 Năm 1995, Phật Quốc Tự (Bulguksa-불국사-佛國寺) và hang động Thạch Quật Am (Seokguram-石 窟 庵-석 굴 암). cách đó 4 km được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Ngôi đại Già lam này được coi như là một kiệt tác của nghệ thuật Phật giáo trong vương quốc Silla (Tân La).

 

Thích Vân Phong

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/06/2011(Xem: 5142)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
26/05/2011(Xem: 2750)
Trong lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á nói chung, Luy Lâu được coi là chiếc nôi của Phật giáo. Nó được coi là Trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á: Trung tâm Phật giáo Luy Lâu; Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành (thuộc Trung Hoa).
14/05/2011(Xem: 6936)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ. Ngay đối với số đông các Phật tử Việt Nam, Thiền tông cũng là một tông phái được ít người hiểu đến vì tính cách kỳ đặc của pháp tu này, vì vậy nên có những xét đoán, phê bình không đúng. Chúng ta nên tránh việc phê bình, chỉ trích các tông phái khác tông phái mình đang tu, vì tông phái nào cũng đòi hỏi một sự học hỏi sâu xa, nên thường khi chỉ trích các tông phái khác thì chỉ căn cứ theo một số hiểu biết hời hợt về tông phái đó, vì vậy những lời chỉ trích thường không đúng được, và chỉ gây thêm những tranh luận vô ích, mất thì giờ. Chúng ta nên tìm học kỹ để phân biệt rõ ràng và thực hành đúng lời Phật dạy, chứ không phải để tranh luận, chỉ trích.
14/04/2011(Xem: 6092)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
12/04/2011(Xem: 11977)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
12/04/2011(Xem: 9655)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
04/04/2011(Xem: 6919)
Khởi đi từ Ấn Độ cách đây 2556 năm về trước, giáo lý của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni bắt đầu tỏa chiếu từ cội cây Bồ Đề linh thiêng và kể từ đó đến nay giáo lý từ bi trí tuệ ấy đã làm cho không biết bao nhiêu chúng sanh được gội nhuần ân pháp vũ. Bất luận là Á Âu hay Mỹ Phi Úc, đâu đâu nếu có những người hướng thiện, muốn tu học và cần cầu sự giải thoát; thì giáo lý kia chính là những chất liệu dưỡng sinh để giúp cho con người mau ra khỏi vòng tục lụy của một kiếp nhân sinh
10/03/2011(Xem: 6489)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
05/01/2011(Xem: 2635)
Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch có những biến chuyển rất lớn về những vấn đề xã hội, văn hoá tư tưởng và tôn giáo. Vào thời điểm này, Ấn Độ chưa phải là một quốc gia rộng lớn độc lập mà bao gồm nhiều tiểu vương quốc khác nhau. Và các tiểu vương quốc ở những khu vực biên giới từ lâu được xem là man di nay đang vùng lên chiếm ưu thế và họ có những thế lực nhất định trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn giáo từ lâu được xem là tôn giáo chính thống đang bị suy giảm uy tín cũng như quyền lực lãnh đạo tinh thần xã hội. Lòng người trở nên hoang mang và hầu như mất đi nơi quy hướng.
29/12/2010(Xem: 3495)
Mùa Xuân là mùa đâm chồi nẫy lộc của thiên nhiên. Cách đây hơn 25 thế kỹ, nhân loại cũng đã chứng kiến một hiện tượng “đâm chồi nẫy lộc” khác vĩ đại và tuyệt vời hơn nhiều. Không phải của thiên nhiên mà của trí tuệ, không phải làm đẹp cảnh vật mà làm sáng lên một con đường giải phóng chúng sinh thoát khổ. Hiện tượng khai hoa nở nhụy đó là sự thành hình của Tăng đoàn Phật giáo (Tăng già, Sangha) do chính Đức Phật khai sinh, nuôi dưỡng và uốn nắn để từ đó lớn lên, lan rộng, vượt thời gian, tồn tại cho đến ngày nay dưới những chiếc tăng bào nhiều màu sắc trên khắp mặt địa cầu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567