Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Lễ hội tết ở Lhasa

27/11/201311:53(Xem: 18686)
20. Lễ hội tết ở Lhasa

Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Tác giả: Diki Tsering

Biên tập & giới thiệu:Khedroob Thondup

Nguyên tác: Cụ Bà Diki Tsering

Việt dịch: Thích Nguyên Tạng

Diễn đọc: Pt Quảng An


20. Lễ hội tết ở Lhasa




Ở cung điện Potala, người ta bắt đầu sửa soạn trước ba tháng cho Losar, mừng vui tết của Tây Tạng, với việc làm bánh mì chiên "kabse". Cả một căn phòng đầy "kabse" được dùng cho mỗi nghi lễ. Vào ngày cuối năm, chúng tôi lau chùi nhà, thay màn cửa, bày bàn thờ, và dọn bánh "kabse" ở trước bàn thờ. Vào buổi tối chúng tôi đãi tiệc bạn bè thân mật.

Ngày Losar chúng tôi thức dậy vào lúc một giờ sáng, cúng dường Đức Đạt Lai Lạt Ma ở bàn thờ gia tộc của chúng tôi, rồi ngồi ở phòng khách. Nhân viên phục vụ đến chúc tết chúng tôi, biếu trà Tây Tạng và bánh "domadesi", chúng tôi uống "kodan" tức "bia chang" ngọt, với phô mai và bột "tsampa". Ban phục vụ tặng chúng tôi khăn lễ katag, theo thứ tự trên dưới. Sau đó chúng tôi đi ngay đến cung điện Potala để dự lễ sáng sớm bắt đầu lúc hai giờ sáng.

Buổi lễ bắt đầu với mọi người hiện diện ở đó đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma, theo thứ tự đẳng cấp: viên chức chính phủ, nhân viên tòa Công Sứ Anh Quốc, các đại biểu Hồi Giáo và Trung Hoa. Mỗi người dâng lên Đức Đạt Lai Lạt Ma một cái khăn lễ, và ngài ban lời chúc phúc, tất cả kéo dài từ hai tới ba tiếng đồng hồ. Trong cuộc lễ chúng tôi được tiếp đủ loại món ăn, lần lượt từng món một: trà Tây Tạng, bột "tsampa" với thịt, bánh "domadesi" với sữa chua. "Tsampa" mềm và ngon, trà được làm bằng lá trà tươi và loại bơ ngon nhất.

banh mi tay tang

Sau khi các vũ công trình diễn điệu múa trống, theo tục lệ những người dự lễ lấy bánh cúng "kabse" cho mình, lấy được bao nhiêu tùy sức của mình. Cảnh mọi người nhào tới lấy bánh trông thật vui, theo tục lệ, các vệ binh cũng đánh vào đám đông này. Người ta nói rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt ra tục lệ này, sau khi ngài thấy cảnh này trong một giấc mộng.

Lễ xong chúng tôi trở về nhà, vì trong ngày đầu năm, chúng tôi phải tiếp nhiều vị khách, đó là các gia đình quý tộc và các viên chức chính phủ. Trong ngày này ở nhà chúng tôi thường đãi món thịt bò hầm khoai tây kiểu Mông Cổ.

Vào ngày thứ hai của tết Losar, tất cả chúng tôi đến dự một cuộc lễ ở cung điện Potala vào lúc tám giờ sáng. Phần mở đầu cũng có phần đảnh lễ Đức Đạt Lai Lạt Ma và ban phước, một nghi thức có trong tất cả những cuộc lễ lớn và quan trọng. Mọi người được đãi bánh "domadesi", trà Tây Tạng, bánh mì chiên dồn thịt và những món khác. Trong ngày này, các nhà tiên tri nói về những sự kiện sẽ diễn ra trong năm mới. Giống như trong ngày thứ nhất, chúng tôi cũng tiếp các vị khách, và mọi người trong gia đình biếu quà tết cho Hội Đồng Bộ Trưởng "Kashag" và các viên chức chính phủ cũng như các vị lạt ma.

Vào ngày mùng bốn tết, bắt đầu lễ hội Monlam, đại lễ cầu nguyện. Mọi người đều phải tuân theo những điều luật nghiêm khắc của lễ Monlam: không gây tiếng ồn ào, kể cả không có tiếng chó sủa, không ca hát, không có rượu. Đêm trước đó các tu sĩ trẻ từ những tu viện khác đến Lhasa và trú ngụ với các gia đình ở địa phương. Sáng sớm ngày hôm sau các vị lạt ma đến tu viện Jokhang, và không bao lâu ba tầng của tu viện đầy kín các tu sĩ, giống như một gò mối.

Nếu Đức Đạt Lai Lạt Ma đến dự lễ Monlam, gia đình chúng tôi cũng đến dự ở một khu đặc biệt ở Jokhang mà mọi người không thể trông thấy, và ở đó, chúng tôi chứng kiến cuộc lễ qua khung cửa sổ. Chúng tôi thường đi dự lễ này vào ngày mùng tám và ngày rằm tháng giêng, được xem là những ngày tốt nhất. Ngoài hai ngày này, chúng tôi không rời khỏi nhà trong hai mươi ngày của lễ Monlam. Chúng tôi có thể quan sát mọi hoạt động từ trên sân của ngôi nhà Changseshar.

Điều mà tôi thấy ngộ nghĩnh trong lễ Monlam là những người mang trà. Họ mặc sắc phục rất đặc biệt, một cái áo kiểu Tây Tạng dài quá đầu gối một chút, không mặc quần và đi chân không, họ mang trên vai một cái bình lớn bằng đồng, chạy vòng vòng tiếp trà cho mọi người.

Có khi tôi xem mấy người đầu bếp làm đồ ăn cho những người dự lễ. Tôi bật cười khi thấy họ ra sức khuấy những nồi lớn, họ phải đứng trên một cái bàn để có thể làm việc này, và cần phải có mấy người để khuấy một nồi. Nếu là món cháo thì người ta dùng một trăm bao gạo và ba mươi con cừu cho một bữa ăn.

Vào cuối lễ Monlam có thi bắn cung và đua ngựa. Mỗi gia đình cung cấp một số người dự thi và ngựa. Người dự thi mặc áo giáp và đội mũ sắt theo tục lệ quân sự ngày xưa.

Chúng tôi ăn tết Losar theo kiểu Lhasa, nhưng ở nhà chúng tôi cũng vẫn ăn tết kiểu Amdo. Thật vậy, chúng tôi làm những nghi lễ kiểu Amdo trong suốt năm. Những người phục vụ của chúng tôi ngạc nhiên khi chúng tôi làm những món ăn đặc biệt cho họ, và chúng tôi nói với họ đây là lễ hay tết kiểu Amdo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17325)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
08/04/2013(Xem: 6809)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
08/04/2013(Xem: 13831)
H. W. Schumann là học giả người Ðức sinh năm 1928. Ông nghiên cứu ngành Ấn Ðộ học, các tôn giáo đối chiếu và nhân chủng xã hội học tại Ðại học Bonn (Ðức). Ông nhận rằng tiến sĩ năm 1957 với luận án Triết học phật giáo. Từ 1960 đến 1963 ông là giảng sư Ðại học Ấn Ðộ ở Benares, Ấn Ðộ. Năm 1963 ông tham gia công tác Bộ Ngoại giao và lãnh sự Cộng hòa liên bang Ðức, phục vụ ngành ngoại giao và lãnh sự của Tây Ðức tại Calcutta (Ấn), Rangoon (Miến), Chicago (Mỹ) và Colombo (Srilanka).
08/04/2013(Xem: 37275)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
28/02/2013(Xem: 7183)
Sông Hằng (Gangā)là con sông nổi tiếng nhất trong lục địa Ấn Độ ngày nay. Tầm quan trọng của con sông này được thể hiện qua ảnh hưởng của nó trong lịch sử văn minh Ấn Độ suốt hơn năm nghìn năm qua.Nếu lịch sử tư tưởng Ấn Độ là một phần quan trọng trong lịch sử tư tưởng thế giới thì sông Hằng là một nhân tố quan trọng để hình thành hệ thống tư tưởng uyên thâm của Ấn độ, đặc biệt của Phật giáo. Bài viết này đề cập đến vai trò của sông Hẳng và những tương hệ của nó đối với sự hình thành và phát triển của Phật giáo Ấn Độ.
01/12/2012(Xem: 13803)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
30/11/2012(Xem: 15038)
Mùa hạ năm 1970 tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, chúng tôi được Thầy Đức Chơn và Thầy Phước Châu giao việc dán lại trang Bát-Kính-Pháp bị nhầm trong sách "Phật và Thánh Chúng" của Thầy Cao Hữu-Đính do Phật Học Viện Trung Phần ấn hành và in tại Nhà in Hoa Sen, NhaTrang. Sau khi công việc hoàn tất, chúng tôi được Quý Thầy cho mỗi người một quyển sách này, tuy rằng lúc ấy chưa phát hành. Lần đầu tiên trong đời, tôi bị tác động rất lớn, qua hình ảnh các Phật-tích ở Ấn Độ và những câu chuyện về Đức Phật và các đệ tử trong quyển sách.
21/11/2012(Xem: 10075)
Quyển sách này hình thành từ các bài giảng của tôi ở Đại học Đại Chính được ghi lại và chỉnh lý, nay giao cho ban in ấn để xuất bản. Tên sách là Lịch Sử Giáo Lý Tịnh Độ Trung Quốc chủ yếu lấy sự phát triển và diễn biến giáo nghĩa của tông Tịnh Độ ở Trung Quốc làm tiêu điểm. Song giáo lý của tôn giáo nhất định phải tùy theo tình tự tín ngưỡng, lại nhờ có đủ tính truyền bá rộng rãi, cho nên đồng thời đối với sự tự thuật giáo nghĩa và sự diễn biến phát triển cũng đều được ghi lại thành sự kiện lịch sử của sự truyền bá.
14/11/2012(Xem: 7093)
Để có thể nắm vững hơn về Phật giáo trong tình trạng hiện nay, có thể chúng ta cần nói thêm về lịch sử Phật giáo và ba truyền thống chính là Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Kim cương thừa. Ông có thể giải thích thêm vài nét chính về các truyền thống ấy hay chăng ? Ta hãy bắt đầu với Phật giáo Nguyên thủy ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]