Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Đạo Sự Kiện Hy Hữu Trong Lịch Sử Nhân Loại

05/01/201118:12(Xem: 2905)
Thành Đạo Sự Kiện Hy Hữu Trong Lịch Sử Nhân Loại


THÀNH ĐẠO

SỰ KIỆN HY HỮU TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI

Thích Huệ Thành

Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch có những biến chuyển rất lớn về những vấn đề xã hội, văn hoá tư tưởng và tôn giáo. Vào thời điểm này, Ấn Độ chưa phải là một quốc gia rộng lớn độc lập mà bao gồm nhiều tiểu vương quốc khác nhau. Và các tiểu vương quốc ở những khu vực biên giới từ lâu được xem là man di nay đang vùng lên chiếm ưu thế và họ có những thế lực nhất định trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn giáo từ lâu được xem là tôn giáo chính thống đang bị suy giảm uy tín cũng như quyền lực lãnh đạo tinh thần xã hội. Lòng người trở nên hoang mang và hầu như mất đi nơi quy hướng.

Chính bối cảnh này đã tạo tiền đề cho việc bùng phát hàng chục giáo phái với các chủ thuyết khác nhau, đang cuồn cuộn nổi lên chống phá bức thành trì kiên cố của tư tưởng truyền thống. Kinh Sa Môn Quả đã cho biết thời này có đến 62 giáo phái cả thảy. Với sự bùng phát giáo phái như vậy, đã mở ra một thời kỳ rối ren phức tạp về tư tưởng. Nhiều bậc giáo chủ say sưa với căn bệnh hiếu biện, mãi mê lý luận trong việc tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ, và tuy vậy vẫn không thể tìm ra được một hướng đi chân chính để phát triển tinh thần xã hội. Cũng chính vào thời điểm này đức Phật ra đời.

Sự kiện ra đời của đức Phật được xem là một bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân loại. Tuy thế, sự ra đời của Ngài chỉ thực sự được biết đến và có ý nghĩa quan trọng khi có sự kiện chứng ngộ Phật quả của Ngài. Nếu Bồ-tát Siddhattha không thành Phật dưới cội Bồ-đề thì những gì gắn liền với Ngài trước đó chắc hẳn đã rơi vào lãng quên. Và sự có mặt của Phật giáo cũng chỉ thực sự được bắt đầu sau sự kiện trọng đại này. Cũng chính vì vậy, truyền thống nguyên thủy đã ghi sự kiện đản sanh và thành đạo của Ngài cùng chung một ngày, đó là ngày trăng tròn tháng Vesakha. Giờ chúng ta hãy cùng quay về ôn lại sự kiện chứng ngộ lịch sử này.

Sau đêm vượt thành lịch sử, thái tử Siddhattha đã từ giã đời sống hệ lụy và bắt đầu dấn thân vào con đường tầm sư học đạo. Trước tiên, Ngài tìm đến đạo sư Ālāra Kālāma và học đạo với vị này, nhưng rồi Ngài đã bỏ đi khi nhận thấy rằng đạo quả Vô sở hữu xứ của giáo phái này không đem đến cho mình sự yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Sau đó Ngài lại tìm đến học đạo với đạo sư Uddaka Rāmaputta. Giáo lý của vị này hướng hành giả đến sở đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và thái tử Siddhattha đã đạt đến sở đắc đó, ngang bằng với vị đạo sư lãnh đạo. Nhưng dù đắc được thiền chứng Phi tưởng phi phi phi tưởng xứ và được mời ở lại lãnh đạo giáo phái, Ngài vẫn một mực từ chối vì mục đích của Ngài là mong muốn đạt đến giải thoát khổ đau thật sự chứ không phải tìm đến địa vị lãnh đạo hội chúng.

Sau đó, Ngài lại lên đường tìm đến Uruvelā; và tại đây, Ngài dừng chân hành trì khổ hạnh với những pháp môn khổ hạnh khốc liệt, như nhịn ăn, nằm giường gai, không tắm rửa... Trong kinh Đại Sư Tử Hống, Trung Bộ I, đức Phật đã mô tả rất nhiều phương pháp tu tập khổ hạnh mà Ngài đã kinh qua, và đây là kết quả của việc tu tập khổ hạnh: “Vì ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những ngọn cỏ hay như những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: ‘Ta sờ vào bụng’ chính da xương sống Ta bị nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: ‘Ta hãy sờ xương sống’ thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ: ‘Ta đi đại tiện hay tiểu tiện’ thì Ta ngã quỵ úp xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn thoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Sariputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.”

Nhưng với tất cả những phương pháp đưa đến sự kiệt quệ thân xác như vậy, Ngài vẫn không thể đạt đến chân lý cứu cánh tối thượng. Vì thế, Ngài đã phá bỏ đời sống khổ hạnh và bắt đầu một đời sống mới bằng bát cơm trộn sữa. Sau bát cơm này, cơ thể của Ngài trở nên dễ chịu và tinh thần sảng khoái. Rồi Ngài nhớ lại sự kiện lúc còn thơ ấu, khi Ngài cùng phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, ngồi một mình dưới cây hồng táo, Ngài đã thể nhập được trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng thái thiền định. Suy nghĩ với phương pháp này có thể đưa đến giác ngộ, Ngài đã bắt đầu ngồi tư duy thiền định dưới cội Bồ-đề, và sau 49 ngày đêm tham thiền, vào đêm cuối cùng, lúc sao mai vừa mọc, Ngài đạt được Tam minh và chứng đắc tuệ giác vô thượng.

Sự kiện giác ngộ của Ngài đã được kinh diễn tả tuần tự từ việc Ngài thể nhập vào Sơ thiền cho đến Tứ thiền và sau đó hướng tâm đến Tam minh. Trước tiên, Ngài hướng tâm đến Túc mạng minh: Thấy rõ vô lượng những kiếp sống trước đây của mình. Sau đó hướng tâm đến Thiên nhãn minh: Thấy biết tất cả những kiếp sống của chúng sanh với những hành nghiệp tạo tác của họ. Và sau cùng, Ngài hướng tâm đến Lậu tận minh: Đoạn trừ tất cả mọi phiền não, lậu hoặc. Đến đây, màn vô minh được vén lên, trí tuệ bừng sáng và Ngài chứng đắc được đạo quả giải thoát tối hậu.

Sự kiện chứng ngộ của Ngài được gọi là Thành đạo. Sau khi Thành đạo, đức Phật đã bắt đầu khởi hành thuyết pháp, từ đây Tăng đoàn được hình thành, và cũng là thời điểm khởi đầu cho việc ra đời của một tôn giáo mới - Phật giáo.

Sự kiện thành đạo của đức Phật đã mở ra một trào lưu tư tưởng mới. Với học thuyết Duyên khởi vô ngã, Ngài đã phá bỏ quan điểm hữu thần cố hữu của Bà-la-môn giáo và các giáo phái khác, cũng như phá bỏ quan niệm về một Tiểu ngã (Atman) thường hằng và một Phạm thiên (Brahman) toàn năng vĩnh cữu. Ngài không đưa ra một giáo thuyết hướng con người đến chỗ siêu hình, hay việc phục tùng tôn thờ một Thượng đế nào đó mà Ngài chú trọng vào đời sống nhân sinh, dựa trên việc khảo sát tâm lý để tìm phương pháp giúp nhân loại thoát khỏi nỗi đau khổ trầm luân đang đè nặng lên họ từ vô lượng kiếp. Học thuyết của Ngài là những gì mới mẽ, khác hẳn với quan niệm của các giáo phái đương thời và cả về sau này, như Ngài đã nói: “Khai mở ra những gì chưa được khai mở.” Ta hãy xem Radhakrishnan nhận định về học thuyết của đức Phật: “Nếu luân lý học lại lập cước trên đám cát biến chuyển của siêu hình hay thần học thì nó không có một sự tôn nghiêm vững chắc. Phật muốn xây dựng luận lý tôn nghiêm trên tảng đá của thực nghiệm tâm lý. Nguyên thủy Phật giáo tương tự như chủ nghĩa thực tiễn, cố chuyển dịch trung tâm điểm từ sự phụng sự Thượng đế sang phụng sự con người. Đức Phật không nhiệt thành về sự việc xây dựng một biểu đồ mới về vũ trụ mà chú trọng vào việc giảng dạy một ý nghĩa mới về bổn phận. Chính ưu điểm của Phật là mở đường cho một tôn giáo biệt lập với tín điều và giáo hội, nghi lễ và thánh hóa. Ngài chỉ nhấn mạnh vào sự hóa thành tâm hồn từ bên trong và vào một hệ thống tự tu đạo. Ngài chứng minh rằng sự cứu rỗi không ở tại sự thu nhận một mớ tín điều đáng nghi ngờ hay là những việc làm đen tối để làm nguôi lòng một Thượng đế biết giận dữ. Sự cứu rỗi cốt ở sự tu sửa tính cách và sùng tín điều lành. Luật pháp luân lý không phải là một phát minh may mắn của một tinh thần đặc biệt, hay tín điều của một thiên khải đáng ngờ, nó là một biểu thị tất nhiên của sự thật về sự vật. Theo Phật, mê muội về sự thật ấy là nguyên nhân của khổ đau.” (Indian philosophy, tr. 358).

Sự kiện Thành đạo của Ngài còn đưa ra một phương pháp tu tập chân chính, một lối sống thích hợp cho những ai muốn tìm đến một đời sống quân bình giữa thể xác và tinh thần. Phương pháp ấy thoát ra khỏi hai hình thái cực đoan là hưởng thọ dục lạc và hành trì ép xác, hai phương pháp mà hầu hết mọi giáo phái bấy giờ đang ứng dụng. Chính kinh nghiệm của Ngài khi còn sống đời vương giả và sáu năm hành trì khổ hạnh đã minh chứng sống động cho lời nói của Ngài. Ngài nhận thấy rằng thọ hưởng dục lạc đem lại cho con người tham đắm và sa đọa, còn hành trì khổ hạnh đem đến cho con người kiệt quệ thể chất cũng như tinh thần. Từ bỏ hai lối sống đó, Ngài chủ trương một lối sống mới, đó là lối sống Trung đạo. Và lối sống này đã trở thành một điểm giáo lý quan trọng của Ngài khi Ngài còn tại thế cũng như được triển khai sâu rộng theo nhiều khía cạnh về sau này.

Sự kiện Thành đạo của Ngài còn đem lại niềm tin cho con người về khả năng của mình. Đó là khả năng có thể đoạn trừ phiền não khổ đau để chứng ngộ Niết-bàn. Ta biết rằng sự kiện thành đạo của Ngài không phải là một sự mặc khải nào đó, mà là một quá trình nỗ lực đoạn trừ vô minh phiền não, vượt qua tất cả những tham dục để khai mở trí tuệ, một trí tuệ vượt ra khỏi những tri thức thường tình của thế gian. Như vậy, sự kiện Thành đạo của Ngài cho chúng ta thấy rằng thái độ rụt rè và bám víu tìm cầu sự cứu rỗi ở các đấng thần linh là điều không cần thiết. Vì rằng tất cả mọi người đều có khả năng giác ngộ như nhau, sự khác biệt về giai cấp, chủng tộc, màu da... chỉ là quan niệm do con người tạo ra, và như Ngài đã từng nói: “Không có giai cấp trong con người có máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”.

Đã hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua từ sau sự kiện Thành đạo của đức Thế Tôn, nhưng giáo thuyết được nói ra từ sở chứng của Ngài ngày nay vẫn hiện hữu và tỏa sáng khắp mọi phương trời, vẫn mãi là liều thuốc hữu ích trong việc đoạn trừ khổ đau và đem lại hòa bình cho nhân loại. Kỷ niệm sự kiện Thành đạo của Ngài, chúng ta vô cùng tri ân những giá trị cao cả mà Ngài đã đem đến cho nhân loại trong hơn 25 thế kỷ qua, và những giá trị đó sẽ là chất liệu làm thăng hoa đời sống thể chất và tinh thần cho những ai biết ứng dụng nó vào trong đời sống của mình.

Thích Huệ Thành

Người gửi bài: Tâm Minh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2013(Xem: 50640)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/10/2013(Xem: 19157)
Là người Việt Nam, bất luận bình dân hay trí thức, chúng ta đều thấy có trọng trách tìm hiểu những gì liên hệ với dân tộc và đất nước thân yêu của mình. Sự tìm hiểu ấy giúp cho chúng ta có nhận thức chính xác về tư tưởng, tánh tình đồng bào ta. Nếu là người trí thức Việt Nam mà không biết gì về truyền thống của dân tộc thì không xứng đáng là trí thức. Thế nên, sự nghiên cứu những mối liên quan với dân tộc, thực là điều kiện tối thiểu của những người yêu dân tộc, quê hương xứ sở.
09/10/2013(Xem: 12383)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
19/09/2013(Xem: 27604)
Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.
05/06/2013(Xem: 4903)
Vào khoảng 4giờ chiều của ngày 10 tháng 09 năm 2003, chuẩn bị đi tụng kinh thì điện thoại lại reo. Nhấc phone để nghe và vừa niệm A Di Đà Phật, thì đầu dây vọng lại cho hay ...
01/06/2013(Xem: 21149)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
27/05/2013(Xem: 6510)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10383)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
15/05/2013(Xem: 3482)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận śūnyatāvāda) và Du-già hành tông (Yogācāra) hay trường phái Duy thức (Vijñānavāda). Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến triết học Trung quán (Madhyamaka Philosophy) hay triết học Tánh không (śūnyatā). Nói chung, đương thời có ba tên gọi dành cho Tiểu thừa và Đại thừa. Ba tên gọi dành cho Tiểu thừa là Phật giáo Nam truyền (Southern Buddhism), Phật giáo Nguyên thuỷ (Original Buddhism), và Phật giáo Tiểu thừa (Hīnayāna). Ba tên gọi dành cho Đại thừa là Phật giáo Bắc truyền (Northern Buddhism), Phật giáo Phát triển (Developed Buddhism), và Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Hai danh xưng đầu là do các học giả Châu Âu. Bắc truyền và Nam truyền là dựa trên yếu tố địa lý. Các học giả Châu Âu cho rằng đạo Phật được truyền bá sang các quốc gia phía Bắc Ấn Độ như Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa , Nhật Bản, v.v... là Phật giáo Bắc truyền, và Phật giáo Nam truyền là đạo Phật được truyền bá đến các quốc gia
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]