Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính Dân Tộc của PGVN trong Lãnh Vực Chính Trị

16/05/201021:01(Xem: 5183)
Tính Dân Tộc của PGVN trong Lãnh Vực Chính Trị
hoa_senSỰ ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

TÍNH DÂN TỘC CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM 
TRONG LÃNH VỰC CHÍNH TRỊ
Giáo sư Hoàng Xuân Hào & Giáo sư Tạ Văn Tài

Trải qua chiều dài lịch sửPhật Giáo Việt Nam hòa hợp với cuộc sống dân tộc để trở thành Việt Phật đầy tính dân tộc, thể hiện trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị và văn hóa. Bài này, trích trong một cuốn sách sẽ xuất bản trong tương lai, chỉ đủ thời lượng để trình bày một khía cạnh, “Tính dân tộc của Việt Phật trong lãnh vực chính trị”, xét theo nhãn quan của khoa chính trị-xã hội học mới.

I. Đức Lý Chính trị - Xã hội Việt Phật. 

Đúc lý này chứa trong Lục Độ Tập Kinh của Thiền Sư Khương Tăng Hội (?-280) (bản dịch của TS Lê Mạnh Thát), gồm 91 truyện Tiền Thân Đúc Phật đã rải rác ở nước ta trước và sau thời Hai Bà Trưng, rồi phối hợp với sáu hạnh tu (bố thítrì giớinhẫn nhụctinh tấn,thiền định,trí thức), với đặc điểm là nhiều truyện là sáng tạo của người Việt, hay nếu là gốc Ấn Độ thì được bản địa hóa, để tạo thành hệ thốngđạo lý làm căn bản xây dựng quốc gia qua nhiều thời đại. Ba thành phần của đức lý này là:

1) Đức lý vương quyền Việt Phật : đề cao sứ mạng chính đáng của vương quyền, dựa trên 4 điều kiện: được thần dân tin yêu, trao cho đế vị (tr.31), chỉ đạo việc nước với lòng nhân từ, tức là “có đạo” (truyện 9,11,15,30,40), làm nước giầu dân mạnh (tr 8,43), coi quyền lợi dân như một với quyền lợi vua (tr.15,53,6,9).

2) Đức lý nghiã vụ hỗ tương Việt Phật: giữa vua nhân và tôi trung (tr.57,20,91,27,37), cha nghĩa và con hiếu (tr.14,49,86, 19), chồng tín và vợ trinh; thực hành trên cơ sở ngũ giới và thập thiện (tr.70,82)

3) Đức lý ái quốc Việt Phật: lo lắng về thảm cảnh mất nước đuợc biểu lộ qua các truyện bàn về nguyên nhân mất nước (lòng tham của kẻ cướp nước và sự không theo lời Phật của kẻ mất nước ) (tr,10,14,46,40,27,68,83,84);các truyện bàn cách không để mất nước, bằng cách trị nước với tình thương (phổ từ, phổ ái) (tr. 3,8,9,11,12,15,23,30,31, 38,40 ,53,57, 67,70,81,84,87,91) hay bằng cách bảo vệ nền văn hóa dân tộc (tr.10,52,23,25,27,41,49,45); lấy lại nước đã mất với tâm bồ tát(tr.10,11,14,46,70).

II. Nhân quyền Việt Phật.

Việt Phật ảnh hưởng đến chính sách nhân quyền đời Lý Trần, như đã trình bày trong bài “Đạo Phật và Nhân quyền trong lịch sử Việt Nam” của chúng tôi tại Hội Thảo 2006, “Phật Giáo Trong Thời Đại Mới”, tại Viện Nghiên Cứu Phật Học: nêu cao quyền toàn vẹn con người trong chính sách hình sự, quyền bình đẳng, quyền tự do tư tưởng và tôn giáo, khiến cho chế độ chính trị phỏng theo nho học Trung Quốc đã mang thêm nhiều đặc thái dân tộc. Đến thời nho học cực thịnh của triều đình Lê Thánh Tông, vua tự nhận là gắn bó chặt chẽ với Phật giáo. Trong luật Nhà Lê, quyền bình đẳng, một chủ đề xuyên suốt kinh điển Phật Giáo, đã được quy định trong tương quan nam-nũ (các bà có quyền làm nữ quan, với ưu đãi trong thủ tục thiết triều; vợ bình quyền với chồng về quyền dân sự và tài sản), trong tương quan giữa các chủng tộc (người thiểu số được xét xử theo tục lệ của họ, được tự trị về hành chánh). Lòng nhân của Việt Phật cũng ảnh hưởng tới luật nhà Lê quy định chính sách kinh tế xã hội: nhà nước có nghĩa vụ giúp ngươi nghèo khó,tật nguyền, cô nhi, quả phụ về lương thực, nơi ở, thuốc men; binh sĩ, tội nhân đang giam cầm, dân đinh đi sưu dịch cũng được săn sóc.

III. Chủ nghĩa quốc gia tự do Việt Phật.

Gồm cả các thành tố nói trên, như đức lý vương quyền, đức lý ái quốc, để có một quốc gia dộc lập,chống lại được ngoại xâm, bảo vệ quyền dân tộc tự quyết trong bang giao với các nước; gồm cả đức lý nhân quyền, trong quốc gia đó có một chính quyền độ dân,tôn trọng nhân quyền của dân, chủ trưong hoà hợp giũa các sắc tộc, địa phương, tôn giáochánh kiến và trình độ văn hóa.

Như vậy Chủ nghĩa quốc gia tự do Việt Phật cũng tương đương như chủ nghĩa quốc gia Tây Phương, như kiểu cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ 1776, cũng đòi quyền dân tộc tự quyết, đi tới một nước độc lập có tôn trọng nhân quyền của dân--chứ không phải là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bài ngoại, vị chủng hay toàn trị.

Có thể nói chủ nghĩa quốc gia tự do Việt Phật đã được quảng diễn trong thuyết “địa linh nhân kiệt” (đất độc lập thiêng liêng, người hào kiệt) do ba thiền sư Định Không (738-808), La Quý (852-936) và Vạn Hạnh ( 933-1018) thuôc dòng thiền Pháp Vân thiết lập trong khoảng 200 năm; và được tuyên dươngtrong 3 bản tuyên ngôn độc lập : bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” do cao tăng Pháp Thuận(chứ không phải Lý Thường Kiệt) sáng tác trong cuộc kháng chiến chống nhà Tống lần thứ nhất 981; bài “Bình Ngô Đại Cáo” sọan bởi Nguyễn Trãi, người được thiền sư Đạo Khiêm dạy Phật pháp hơn 10 năm tại chùa Từ Phúc(Côn Sơn), và anh hùng Lê Lợi công bố 1427 để xác lập độc lập sau khi anh hùnghào kiệt nước Việt đã dùng ‘đại nghĩa và chí nhân” để thắng giặc Minh; và bài “Hịch Đánh Quân Thanh”, có lẽ do Ngô Thờì Nhiệm sọan cho vua Quang Trung công bố năm 1788.

Những anh hùng chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền quốc gia , phần lớn do tinh thần Việt Phật hun đúc nên: Lý Bí (503-548), một Phật tử do nhà chùa giáo dụcthắng quân Lương năm 544 và lập ra nhà Tiền Lý; Ngô Quyền (939-944), một Phật tửđại thắng quân Nam Hán năm 938; Lê Đại Hành (980-1005), một Phật tửđại thắng quân Tống lần thứ nhất năm 981; cư sĩ Lý Thường Kiệt (1019-1105) đại thắng quân Tống lần thứ hai, 1077; Vua Trần Thái Tông (1225-1258), thiền sư tại giađại thắng quân Nguyên lần thứ nhất, 1258; Vua Trần Nhân Tông (1279-1293), thiền sư tại gia, đại tháng quân Nguyên lần thứ hai, 1258 và lần thứ ba, 1288; hai lần đại thắng này, công đầu là thuộc danh tướng Trần Hưng Đạo, cũng là thiền sư tại gia; Lê Lợi, thắng quân Minh 2 lần, 1426 và 1427, với sự cố vấn của Nguyễn Trãi, một đệ tử của sư Đạo Thiên; và vua Quang Trung, đại thắng quân Thanh , 1789, với sự cố vấn của Ngô thờì Nhiệm, sau này là Thiền sư Hải Lượng.

KẾT LUẬN. Việt Phật, với những thành tựu đặc biệt về đức lý chính trị-xã hội, tôn chỉ nhân quyền, và chủ nghĩa quốc gia tự do, là niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam—vì đã đi trước Tây phương nhiều thế kỷ. 
 
 

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ DIỄN GIẢ

Giáo sư/Luật sư Tạ Văn Tài

- Cựu sinh viên và Giáo Sư Đại Học Văn Khoa và Luặt Khoa Saigon và Trường Quốc Gia Hành Chánh, Saigon 
- Tốt nghiệp Cao Học Luật Khoa tại tại Học Harvard, 1985. Tiến Sĩ về Công Quyền và Ngoại Giao tại Đại Học Virginia. 
Luật Sư tại Việt Nam trước năm 1975 và tại các toà án Tiểu Bang và Liên Bang ở Massachusetts từ năm 1986. 
- Hội Viên Nghiên Cứu từ năm 1975 và Giảng Viên Luật Việt Nam tại Trường Luật Khoa, Đại HọcHarvard. 
Học Giả Nghiên Cứu tại Trường Luật Khoa, Đại Học New York, 1990-1994.

Tác Phẩm:

 “Hiệp Ước Thương Mại Mỹ-Việt”, Tạp Chí Harvard Asia Quarterly, mựa éụng 2001 · 
“Nền Pháp Trị ở Việt Nam và Trung Hoa Thế Kỷ 19” trong sách Histoire de la Codification Juridique au Vietnam (Lịch Sử Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam), Bernard Durand,..., Phân Khoa Luật, Đại HọcMontpellier, tháng 2/2001 · 
Truyền Thống Nhân Quyền Việt NamĐại Học Berkeley, Viện Nghiên Cứu Đông Á, 1988 
Di Dân trước Toà Án Hoa Kỳ, Ban Tu Thư Đại Học Washington. 1999 · 
Luật Đầu Tư và Hành Nghề tại Việt Nam, Hong Kong, Longman, 1990 (viết chung với Jerome Cohen) 
Luật Triều Lờ: Luật Pháp Cổ Truyền Việt Nam, 3 tập, Ban Tu Thư Đại Học Ohio, 1987 (viết chung với Gs. Nguyễn Ngọc Huy) 
Luật Pháp Đông Nam Châu Á, Singapore: Butterworths, 1986 (viết chung với Hooker, ...) 
Luật Pháp và Nhà Nước Cổ Truyền Đông Á, Honolulu: Ban Tu Thư Hawaii, 1986 (viết chung với McKnight,...) 
Làm Thương mại ở Việt Nam, Saigon, Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế Việt Nam, 1970, 1974 (viết chung với Gs. Tăng Thị Thanh Trai và Sesto Vecchi) 
Chính Sách Bầu Cử tại Nam Việt Nam, Massachusetts: D.C. Heath, 1974 (viết chung với J.C. Donnell, ...) 
Sách tiếng Việt: Phương Pháp Khoa Học Xã Hội, Saigon, Hiện Đại, 1973, v.v..

* Giải Thưởng và Sách Who’s Who:

Nhận Giải Thưởng Fulbright, USAID, của Tổ chức Asia và Ford Foundations, của Aspen Institute.

Tiểu sử và thành tích được đăng trong các sách: Who’s Who In American Law, Who’s Who In The World, Who’s Who In America, Who’s Who Among Asian-Americans. 

___________________

Giáo sư Hoàng Xuân Hào 
- Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, 1960; 
Tiến sĩ Công PhápĐại Học Luật Khoa Saigon, 1972 
- Nguyên giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, và Nghị Sĩ Thương Nghị Viện Việt Nam Cộng Hòa, trước 1975. 
Tác Phẩm dài: Phật Giáo Và Chính trị tại Miền Nam Việt Nam trước 1975; 
Nhiều bài viết trong các tập san Nghiên cứu Hành Chính, Phát Triển Xã Hội và tập san Quốc Phòng, tại Miền Nam Việt Nam trước 1975.
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/11/2013(Xem: 50413)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/10/2013(Xem: 19064)
Là người Việt Nam, bất luận bình dân hay trí thức, chúng ta đều thấy có trọng trách tìm hiểu những gì liên hệ với dân tộc và đất nước thân yêu của mình. Sự tìm hiểu ấy giúp cho chúng ta có nhận thức chính xác về tư tưởng, tánh tình đồng bào ta. Nếu là người trí thức Việt Nam mà không biết gì về truyền thống của dân tộc thì không xứng đáng là trí thức. Thế nên, sự nghiên cứu những mối liên quan với dân tộc, thực là điều kiện tối thiểu của những người yêu dân tộc, quê hương xứ sở.
09/10/2013(Xem: 12324)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm 2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới đây là phần chuyển ngữ.
19/09/2013(Xem: 27528)
Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.
05/06/2013(Xem: 4895)
Vào khoảng 4giờ chiều của ngày 10 tháng 09 năm 2003, chuẩn bị đi tụng kinh thì điện thoại lại reo. Nhấc phone để nghe và vừa niệm A Di Đà Phật, thì đầu dây vọng lại cho hay ...
01/06/2013(Xem: 21082)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
27/05/2013(Xem: 6451)
Bài này tìm học rõ ngày sinh của đức Phật. Trên thế giới ngày nay có năm tôn giáo lớn: đạo Cơ Đốc, đạo Hồi, đạo Ấn Độ, đạo Do Thái và đạo Phật. Hai tôn giáo có tính cách cục bộ là đạo Ấn Độ (Hinduism) và đạo Do Thái (Judaism). Đạo Ấn Độ vào đầu thiên niên kỷ Ba đếm 700 triệu tín đồ, tức là 13% dân số thế giới. Đạo Do Thái rất ít tín đồ, 18 triệu người trên dân số thế giới gần 7 tỉ, thế nhưng ảnh hưởng bao la trên lịch sử, chính trị và kinh tế thế giới.
25/05/2013(Xem: 10324)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
15/05/2013(Xem: 3476)
Triết học Phật giáo Đại thừa có hai phương diện, đó là Triết học Phật giáo Đại thừa hay Tánh không luận śūnyatāvāda) và Du-già hành tông (Yogācāra) hay trường phái Duy thức (Vijñānavāda). Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến triết học Trung quán (Madhyamaka Philosophy) hay triết học Tánh không (śūnyatā). Nói chung, đương thời có ba tên gọi dành cho Tiểu thừa và Đại thừa. Ba tên gọi dành cho Tiểu thừa là Phật giáo Nam truyền (Southern Buddhism), Phật giáo Nguyên thuỷ (Original Buddhism), và Phật giáo Tiểu thừa (Hīnayāna). Ba tên gọi dành cho Đại thừa là Phật giáo Bắc truyền (Northern Buddhism), Phật giáo Phát triển (Developed Buddhism), và Phật giáo Đại thừa (Mahāyāna). Hai danh xưng đầu là do các học giả Châu Âu. Bắc truyền và Nam truyền là dựa trên yếu tố địa lý. Các học giả Châu Âu cho rằng đạo Phật được truyền bá sang các quốc gia phía Bắc Ấn Độ như Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa , Nhật Bản, v.v... là Phật giáo Bắc truyền, và Phật giáo Nam truyền là đạo Phật được truyền bá đến các quốc gia
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]