Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Học Viện Phật Giáo Việt Nam

10/04/201314:13(Xem: 4567)
Đôi nét về Học Viện Phật Giáo Việt Nam


VÀI NÉT VỀ HỌC VIỆN
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP HCM


Thích Quang Bảo

Học viện Phật giáo Việt nam tại TP HCM toạ lạc số 716, Nguyễn Kiệm, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh. Đây là một cơ sở giáo dục cấp đại học Giáo hội Phật giáo Việt Nam ( Học viện PG Việt Nam tại Hà Nội, Học viện PG Việt Nam tại Tp Huế), được thành lập từ ngày 25 tháng 02 năm 1982 theo nghị quyết phiên họp thứ nhất của Ban thường trực Hội đồng trị sự Trung Ương và theo quyết định 0160/ QĐ ngày 17 tháng 03 năm 1983 của Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hồ Chí Minh. Mục đích của học Viện là nhằm để đào tạo những tăng ni sinh có kiến thức đại học về giáo lý căn bản của các bộ phái Phật giáo, lịch sử Phật giáo Việt nam và văn hoá ( phật giáo) Việt Nam, để sau khi tốt nghiệp Cử Nhân Phật học có thể tiếp tục học cấp Cao học, Tiến Sĩ, trở thành nghiên cứu viên Viện nghiên Cứu Phật học, hoặc đảm trách các công tác chuyên môn, Phật sự tại trung ương giáo hội, Ban Trị sự tại các tỉnh, Thành trong toàn quốc.

Hệ thống tổ chức của học Viện Phật giáo tại TP Hồ chí minh gồm có hội đồng điều hành, ban học vụ, Ban giảng huấn, văn phòng điều hành, ban đại diện sinh viên và Ban bảo trợ. Theo quy chế thì học Viện thu nhận tăng ni sinh trên toàn quốc theo một số tiêu chuẩn sau:

  1. Tăng Ni sinh thuộc giáo hội Phật giáo Việt nam, được sự giới thiệu của Giáo hội và ban tôn giáo cấp tỉnh thành, và chính quyền địa phương xác nhận.

  2. Tốt nghiệp trường Cơ bản phật học nay là trường Trung Cấp Phật học và tốt nghiệp phổ thông trung học ( tú tài), đã thọ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

  3. Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào Học viện gồm ba môn thi:Phật pháp căn bản; Văn học Việt nam; anh ngữ ( chương trình lớp 12 hiện hành).

Học viện Phật giáo Việt nam theo chế độ niên chế, kéo dài trong 4 năm, mỗi năm học có hai học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài bốn tháng rưỡi. Cuối mỗi học kỳ đều có thi kiểm tra cuối học kỳ. Điểm trung bình của hai học kỳ mỗi năm phải đạt điểm 10/20 mới được cấp chứng chỉ cuối năm và được học tiếp năm kế tiếp. Các sinh viên tăng ni nếu đạt yêu cầu trong 4 năm học sẽ được cấp 4 chứng chỉ và hoàn thành luận văn tốt nghiệp sẽ được học Viện cấp văn bằng Cử Nhân Phật học.

Chương trình học của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh được phân bổ trong 4 năm. Mỗi năm Tăng Ni sinh học trong 9 tháng, mỗi tháng 4 tuần, mỗi tuần 24 tiết. Số học trình Tăng ni học mỗi năm tương ứng 864 tiết, hoàn tất chương trình 4 năm là 3456 tiết. Cụ thể như sau:

Nội điển Kinh Luật, Luận phật giáo- chuyên sâu về các giáo lý căn bản như Duyên khởi, Tứ đế, Nhân quả, Nghiệp báo, Tái sinh, Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Thập Bát giới.

  • Một số kinh tiêu biểu của Thượng tọa Bộ, Nhất Thiết Hữu bộ, và Phật giáo phát triển.

  • Lịch sử tư tưởng các bộ phái ( Hay tông phái cương yếu) – Giới luật của ba bộ phái- văn học Phật giáo Việt Nam- Lịch sử Phật giáo Việt Nam- Thực tập thiền định.

Ngoại điển: Gồm các môn học thuộc chương trình đại học Đại cương như: Lịch sử Việt Nam, Văn học Việt nam, Thẩm mỹ học, cơ sở văn hoá Việt nam, Văn minh việt nam, đại cương cơ sở Văn hoá Việt nam, Môi sinh học, tôn giáo học, công dân giáo dục, xã hội học, Triết đông, triết tây, triết học Mac Lê –nin, giáo dục học, quản trị hành chánh. Ngoài ra, trong chương trình học còn có các môn học cổ ngữ và sinh ngữ như: Sanskrit, Palì, Hán cổ, hoa văn, anh văn Thuật ngữ và anh ngữ thực hành.

Phần chuyên môn:

  • Một số kinh tiêu biểu của ba bộ phái thuộc hệ Nykàya, A hàm, và đại Thừa Phật giáo ( Pháp Hoa, Viên giác, Kim cương, hoa Nghiêm, Lăng già, bảo tích)… Lịch sử tư tưởng các bộ phái ( hay các tông phái của đạo Phật) – giới luật căn bản của ba bộ phái- Văn học Phật giáo Việt nam- lịch sử phật giáo việt nam- thiền học Việt nam, thiền học thực hành- luận lý học Phật giáo ( hay Nhân minh học Phật giáo)- Luận A tỳ đàm- luận Thanh tịnh, duy thức luận, luận câu xá, luận trung quán- văn học Phật giáo thế giới- lịch sử phật giáo thế giới.

Ngoại khoá và luận văn tốt nghiệp:

Ngoài chương trình học chính thức với các môn học vừa nói trên, học viện còn tổ chức chương trình ngoại khoá do các giáo sư, học giả, tiến sĩ trong và ngoài nước đến thuyết giảng về các đề tài Phật học và các đề tài khác có liên quan đến Phật học như Văn học ngệ thuật và Mỹ thuật, hội hoạ âm nhạc, xã hội, môi trường, hiến pháp, sinh hoạt đại học nhằm bổ túc kiến thức cho Tăng ni sinh. Bên cạnh đó Ban học vụ và Ban giảng huấn còn tổ chức hướng dẫn cho Tăng ni sinh làm luận văn tốt nghiệp theo yêu cầu ở cấp Cử Nhân Phật học.

Từ lúc thành lập đến nay, Học Viện Phật giáo Việt nam đã và đang đào tạo 4 khoá cấp Cử Nhân Phật học. Khoá I (1983-1987) có 60 sinh viên. Khoá II ( 1988-1992) có 100 sinh viên. Khoá III (1993-1997) có 234 sinh viên. Khoá IV (1997-2001) có 287 sinh viên đang theo học và sắp sửa tốt nghiệp.

Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân Phật học, nhiều sinh viên tiếp tục chương trình hậu đại học ( Thạc sĩ và Tiến sĩ) tại các nước như: Aᮠđộ có 120 sinh viên, đài loan, trung quốc, nhật bản, pháp và Tích Lan. Trong vòng hai năm nữa, số Tăng ni sinh tốt nghiệp của học Viện sẽ trình xong Luận án tiến sĩ tại nước ngoài lên đến 50 vị. Trong thời gian tới học Viện sẽ hoàn chỉnh cơ sở mới với kinh phí xây dựng trên 10 tỷ đồng việt nam, tiến tới mở cấp đào tạo Thạc sĩ, tiến sĩ Phật học. Tất cả mọi nỗ lực của học viện là nhằm đào tạo đội ngũ Tăng ni sinh thích ứng với nhu cầu phát triển mới của đất nước và giáo hội, học viện thiết tha kêu gọi các tổ chức và cá nhân Phật tử cùng với các thành viên ban bảo trợ đứng đầu là vị trưởng ban đạo hữu Nguyên Đào nỗ lực đóng góp để học viện ngày càng thăng tiến trong công cuộc giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ.


---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3531)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 28297)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 8414)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3538)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4268)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 7261)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4879)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 14147)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 5886)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 2555)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567