Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyện kể các Đường Tăng Việt Nam

10/04/201314:14(Xem: 4465)
Truyện kể các Đường Tăng Việt Nam


Truyện kể các
ĐƯỜNG TĂNG VIỆT NAM


Thích Đồng Bổn

---o0o---

Bạn có biết ! đâu chỉ có Mécca là thánh địa mà mọi người Hồi giáo đều mơ ước hành hương một lần trong đời. Người Phật giáo, không chỉ mơ ước được hành hương về chốn "tứ động tâm" (Đản sinh – Thành đạo – chuyển Pháp luân – nhập Niết bàn), mà các đệ tử của Ngái ở xứ An Nam còn muốn noi gương Đường Tăng Trần Huyền Trang thân hành đến đất Phật để học hỏi, nghiên tầm và tu tập ngay chính nơi đức Bổn sư ghi dấu tích.

Xin lược ghi về hành trạng của một số vị mà tôi sưu tầm được, để chúng ta thấy ý chí và hoài bão của các Ngài : Đến đất Phật – Tìm dấu Phật – Chiêm bái Phật – Học kinh Phật – Hành hạnh Phật – Truyền bá Phật" ở các vị "Đường Tăng Việt Nam" đã thành tựu hạnh nguyện nầy :

Hòa thượng Thiện Quảng (1862 – 1911)

Ngài quê quán ở Bến Tre, có mật hạnh là chỉ độ toàn rau quả chứ không ăn cơm. Ngài có nguyện ước qua bằng được xứ Phật để chiêm bái học hỏi. Năm Nhâm Tuất 1898, Ngài bắt đầu chuyến ra đi trên một chiếc thuyền hai cột buồm, với một ít rau trái làm lương thực.

Sau gần ba ngày lên đênh trên biển cả, sóng to gió lớn ập đến đẩy con thuyền của Ngài trôi giạt vào bờ biển Thái Lan, con thuyền bị tan vỡ, Ngài được nhân dân Thái giúp đỡ và họ vô cùng kính trọng khi thấy Ngài chỉ ăn toàn rau. Tiếng lành đồn xa, vua Thái thỉnh Ngài về hoàng cung đàm đạo, vua tỏ lòng kính mộ khi biết rõ hạnh nguyện của Ngài và mong muốn thỉnh Ngài ở lại đất Thái để hóa đạo. Không tiện chối từ, với điều kiện sau khi Ngài hoàn thành ước nguyện đến đất Phật sẽ trở lại hoằng hóa nơi đây. Ba năm sau, đủ nhân duyên, được sự trợ giúp của Nhà vua Thái, Ngài lên đường với ba người Thái và một người Miến Điện dẫn đường. Ngài đi xuyên qua đất Miến Điện, từ ngõ Tây Tạng để vào đất Ấn Độ.

Trong năm tháng ở Ấn Độ, Ngài đã đi chiêm bái tìm hiểu dấu tích ở tất cả các nơi mà đức Phật đã đi qua và truyền bá giáo pháp. Sự tận mắt thấy được, tận tay sờ chạm được thánh tích là chứng tín lớn nhất về chánh pháp của Phật ở trong Ngài. Thỏa nguyện ước một đời, Ngài đi sang đất Trung Hoa viếng thăm các thắng tích của Bồ tát Quan A⭠ở núi Thiên Thai, phủ Hàng Châu ; đến Phúc Kiến, sang Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam rồi xuôi xuống Miến Điện để về lại Thái Lan vào năm Nhâm Dần1902, như đã hứa với nhà vua Thái.

Ngài chọn hang KhoLẽm làm chốn tu hành, tiếng đồn về "ông Thầy Rau" càng được kính trọng vang xa. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã tìm đến ra mắt và đàm đạo. Cụ Phan rất kính trọng Ngài và trở thành tâm giao trong nỗi niềm những người Việt xa xứ. Lòng yêu nước của Ngài đã trổi dậy theo cụ Phan, và dấn thân vào hoạt động bằng cách bí mật trở về Việt Nam vận động quyên góp cho phong trào.

Năm Tân Hợi 1911, Ngài lại vì cụ Phan mà lên đường trở về Việt Nam lần thứ hai, bằng đường bộ qua ngõ Tây Ninh. Nhưng Ngài đã gục ngã nơi biên giới bởi lằn đạn chực chờ của thực dân Pháp, Ngài mất năm 50 tuổi. Tại hang Kholẽm vẫn còn tấm bia tưởng niệm Ngài với hai chữ gần gũi mà kính trọng : "Thầy Rau" .

Hòa thượng Minh Tịnh – Nhẫn Tế (1888 – 1951)

Ngài sinh năm Kỷ Sửu 1888, quê quán ở Lái Thiêu - Bình Dương, đệ tử xuất gia với Tổ Thiên Thai-Huệ Đăng, được ban pháp hiệu là Minh Tịnh. Sau khi thọ học với Tổ một thời gian, vì muốn mở rộng kiến thức hơn nữa về giáo lý và pháp tu, Ngài quyết tâm lên đường đến xứ Phật để thực hiện ý nguyện đó.

Nhờ các tàu buôn, Ngài đến được đất Aᮠvào tháng tư năm AᴠHợi 1935. Ở đây tùy thuận phong tục để dễ bề tham học tu tập, Ngài chuyển sang đắp y theo Phật giáo Nam tông của Sri Lanka. Được một thời gian, Ngài vẫn không thấy thỏa mãn với giáo pháp của tông phái này, và lại ra đi tìm đến xứ Tây Tạng để nghiên cứu về Kim cang thừa.

Ngài đến Lhasa vào tháng sáu năm 1936. Tại đây, Ngài cầu pháp với Lama Quốc vương và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được chọn ứng thí : một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài – khi đoạn chỉ bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài siết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn. Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.

Sau một trăm ngày tu học ở Tây Tạng, Ngài được Lama Quốc vương ngự ý ban pháp danh là Thubten Orall Lama, ấn chứng tâm pháp của giáo pháp Kim cang thừa và sở đắc thiền học giáo ngoại biệt truyền.

Ngài trở về Việt Nam ngày 30. 6. 1937, lập nên chùa Thiên Chơn ở Chợ Búng-Lái Thiêu. Sau đó, lại xây dựng chùa Tây Tạng ở Thủ Dầu Một, bắt đầu truyền bá giáo pháp sở đắc. Ngài mất năm 1951, thọ 63 tuổi đời.

HÒA THƯỢNG HUỆ QUANG (1888 – 1956)

Ngài họ Nguyễn, sing năm 1888 tại Ô Môn-Cần Thơ, xuất gia năm 1902 và đắc pháp với Hòa thượng Từ Văn năm 1919, được ban pháp hiệu là Huệ Quang.

Năm 1931, Ngài cùng Hòa thượng Khánh Hòa và chư tôn đức lập hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, trụ sở ở chùa Linh Sơn-Sài gòn, xuất bản Tạp chí Từ Bi A⭬ làm nhân tố cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Nam.

Năm 1934, Ngài lại cùng Hòa thượng Khánh Hòa lập nên hội Lưỡng Xuyên Phật Học ở Trà Vinh và ra mắt Tạp chí Duy Tâm vào năm 1935, do Ngài làm chủ nhiệm.

Năm 1953, Ngài được suy tôn ngôi pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt. Năm 1956, Ngài lại được suy cử Phó Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cùng xuất bản tập san Phật Giáo Việt Nam, do Ngài làm chủ nhiệm.

Ngày 10. 11. 1956, Ngài cùng phái đoàn Phật giáo Việt Nam lên đường tham dự hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ IV tại Népal. Phái đoàn dự đại hội xong trở veề New Delhi đi chiêm bái các thánh tích. Sau khi chiêm bái, như đã có nguyện ước được trở về với Phật tại đất Phật, Ngài đột ngột viên tịch tai đây, nhục thân Ngài được trà tỳ tại xứ Ấn Độ. Ngài hưởng thọ 68 tuổi đời với 37 năm hoằng hóa.

HÒA THƯỢNG TỐ LIÊN (1903 – 1997)

Ngài quê quán Hà Đông, xuất gia năm 13 tuổi, trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc kỳ năm 1935, Ngài được mời ra chùa Quán sứ-Hà Nội gánh vác Phật sự và giảng dạy.

Tháng 5 năm 1950, ngài đại diện cho Phật giáo Việt Nam đi dự hội nghị thành lập Hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu tại Sri-Lanka, một xứ sở được coi là thánh địa của Phật giáo sau AᮠĐộ. Tại đại hội này, Phật giáo Việt Nam là một thành viên, lá cờ ngũ sắc ngày nay được công nhận là Phật kỳ tại đại hội đó và Ngài được suy cử làm Phó hội trưởng Hội Phật giáo thế giới. Sau đại hội, Ngài đi chiêm bái các thánh tích tại Ấn Độ.

Chính Ngài là người đã mang lá Phật kỳ ngũ sắc đầu tiên từ Tích Lan về phổ biến tại Việt Nam.

HÒA THƯỢNG MINH CHÂU

Ngài sinh năm 1918 tại Nghệ An, là một trong những người sáng lập "Gia đình Phật hóa phổ", tiền thân của Gia đình Phật tử Việt Nam ngày nay. Ngày xuất gia năm 1946, giữ chức Hiệu trưởng trường Bồ Đề đầu tiên tại Huế năm 1951.

Năm 1952, Ngài xuất dương sang du học ở Sri-Lanka và AᮠĐộ. Ngài học Pali ngữ và Anh văn tại Sri-Lanka, sau đó vào học ở viện Đại học Phật giáo quốc tế Nalanda-Aᮍ Độ. Năm 1958, Ngài đỗ thủ khoa cao học MA về Pali ngữ và Abhidhamma. Năm 1961, Ngài đỗ tiến sĩ Phật học-văn học Pali. Ngài là người Việt Nam đầu tiên đạt được học vị Phật giáo quốc tế cao nhất.

Năm 1964, Ngài về nước phụ trách ngành giáo dục Phật giáo, làm hiệu trưởng viện Đại học Vạn Hạnh, rồi lần lược làm hiệu trưởngHọc viện Phật giáo Việt Nam cơ sở II, viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Hành trạng của Ngài quả là một "Đường Tăng Việt Nam" tiêu biểu, bởi sự nghiệp lớn nhất là phiên dịch Kinh tạng Pali ngữ sang Việt ngữ, như việc làm của ngài Huyền Trang thuở xưa.

HÒA THƯỢNG THIỆN CHÂU

Ngài sinh năm 1931 tại Huế, xuất gia năm 16 tuổi, Ngài học tại Phật học đường Báo Quốc từ năm 1948 đến năm 1958 và là Giảng sư khắp các tỉnh miền Trung khi còn rất trẻ, được mệnh danh là "ngôi sao sáng Phật học Việt Nam" thời bấy giờ.

Năm 1961, Ngài đi du học tại viện Đại học Phật giáo quốc tế Nalanda ở bang Bihar-Ấn Độ. Năm 1963, Ngài tốt nghiệp cử nhân Pali, đến năm 1965 tốt nghiệp thêm cử nhân Anh văn. Sau đó, Ngài sang Anh Quốc nghiên cứu tại viện Đại học London.

Năm 1967, Ngài sang Pháp nghiên cứu và đảm nhận chủ tịch hội Phật tử Việt kiều hải ngoại. Năm 1977, Ngài đỗ Tiến sĩ tại Đại học Sorbon-Paris. Năm 1980, Ngài xây dựng ngôi chùa Trúc Lâm Thiền Viện ở ngoại ô Paris, một ngôi chùa Việt Nam hoàn chỉnh về kiến trúc văn hóa Việt. Ngài đã viết và phiên dịch một số lượng lớn tác phẩm. Ngài viên tịch năm1998, để lại bao tiếc thương về một nhân tài Phật giáo thành danh ở hải ngoại.

*

Và còn nhiều nữa những "Đường Tăng Việt Nam" đã hoàn thành sứ mệnh nơi nước Phật, đem sở học truyền bá chánh pháp Như Lai tại quê nhà và hải ngoại như các vị :

Hòa thượng Huyền Vi, xuất dương du học tại AᮠĐộ rồi hoằng dương ở nước Pháp với hội Phật giáo Linh Sơn có chi nhánh khắp thế giới.

Hòa thượng Chân Thường, từ Việt Nam sang Pháp hoằng dương, rồi từ Pháp đi AᮠĐộ tham học và chiêm bái, trở về Pháp hành đạo tại đây , sáng lập hội Phật giáo Quán A⭠ở ngoại ô Paris.

Hòa thượng Thiện Thanh, từ Việt Nam đi du học ở AᮠĐộ và ở lại hoằng dương Phật pháp tại chùa Phật Tổ-Mỹ Quốc.

Thượng tọa Huyền Diệu, từ Pháp đi AᮠĐộ nghiên cứu rồi phát nguyện ở lại đây hoằng dương, xây dựng nên ngôi chùa "Việt Nam Phật Quốc Tự" tại Bồ Đề đạo tràng và một ngôi ở Lumbini-Népal.

Thượng tọa Chơn Thiện, từ Việt Nam sang AᮠĐộ du học, đạt học vị Tiến sĩ hạng tối ưu, trở về nước phục vụ. Thượng tọa hiện là phó hiệu trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh và Tp. Huế, cũng là phó viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Thượng tọa là một học giả lỗi lạc với một số tác phẩm biên soạn và dịch thuật có giá trị.

Và còn nhiều vị Tăng trẻ nữa đã và đang tham học nơi đất Phật hoặc hành đạo nơi ấy, hoặc trở về nước phục vụ, hoặc còn du phương ở các nước như : Tỳ kheo Hạnh nguyện ; Tỳ kheo Nhật Từ ; Tỳ kheo Minh Thành . . . .

Có thể nói, AᮠĐộ là vùng đất thiêng nơi đã sản sinh ra đức Từ phụ Thích Ca và giáo pháp của Người. Ngày nay các đệ tử của người từ khắp năm châu vẫn ước mơ được một lần hành hương về đấy để như được sinh lại lần nữa, nối tiếp con đường truyền bá chánh pháp như những Như Lai sứ giả thuở xưa, sau 25 thế kỷ tồn tại thế gian lợi lạc hữu tình. Và những Đường Tăng nước Việt ngày nay đã góp phần làm rạng rỡ lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Từ tựa đề ngẫu hứng của Phan Bội Châu viết truyện "Đường Tăng Nước Nam", đã làm nẫy sinh trong tôi ý định viết tiếp truyện này. Cho thấy rằng, chứng tích nguyên thủy của thánh địa chính là sự phát khởi đại tâm, tục Phật huệ mạng cho tất cả đệ tử của Người, mong ước một lần trong đời tìm về xứ Phật, tìm lại sức mạnh tự tánh Phật sẳn có trong chúng ta.

Mùa an cư năm 2000
Tỳ kheo Thích Đồng Bổn


---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3858)
Ở quê tôi, đa phần các làng đều có chùa và đình. Ngày xưa lúc còn bé, tôi và những đứa trẻ trong làng hay đến chùa và đình vào những dịp lễ để vui đùa và ăn ké theo người lớn. Những hình ảnh về các sinh hoạt lễ hội của chùa và đình vẫn còn in đậm trong ký ức tôi cho đến ngày nay.
07/07/2011(Xem: 30963)
Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác, Cư sĩ Nguyễn Kha, và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng các phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.
02/07/2011(Xem: 9667)
Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật tồn tại đến ngày nay là do sự truyền thừa từ đức Phật đến chư tổ. Tổ lại truyền cho tổ, ‘Tổ tổ tương truyền’ tiếp diễn từ đời nầy sang đời khác. Sự truyền thừa được thể hiện qua hai phương diện giáo lý và thật hành. Về phần giáo lý thì mỗi tông phái đều sáng lập giáo nghĩa, tông chỉ riêng biệt và đều lấy kinh điển của Phật làm nền tảng. Về phần thật hành hay phần sự có khác biệt là tùy theo giáo nghĩa và tư tưởng của mỗi tông. Mỗi tông phái đều truyền bá và xiển dương pháp môn của mình trong tông môn và quần chúng Phật tử. Mỗi tông phái của đạo Phật được ví như mỗi loại hoa của vườn hoa Phật pháp. Mỗi loại hoa có nét đẹp và hương thơm riêng biệt, để khoe sắc hương, nhưng tất cả đều ở trong vườn tịnh của Phật pháp. Cũng như vậy, mỗi tông phái đều là của đạo Phật và đều cùng mang một vị, đó là vị ‘giải thoát’. Trong phần sưu tập về tông phái Thiên thai, chúng tôi chia thành hai giai đoạn chính. Đó là sự sáng lập tông phái ở Trung Quốc, sau nhiều thế kỷ
23/06/2011(Xem: 3938)
Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ? Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu, tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.
23/06/2011(Xem: 4675)
Việt Nam là cái lưng của bán đảo Ấn Trung, vị trí của bán đảo nầy nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế nằm giữa hai nước lớn có nền văn hóa cổ xưa nhất của nhân loại nên đương nhiên Việt Nam có ảnh hưởng cả hai nền văn hóa đó, kể cả tôn giáo. Từ phương Bắc, Trung Quốc đã tràn xuống chiếm cứ đất đai với âm mưu đồng hóa dân Việt, biến Việt Nam thành một phần lãnh thổ của họ. Do đó dân Việt chiến đấu không ngừng để sống còn và giữ gìn sự độc lập của mình, thế nhưng không tránh khỏi sự ảnh hưởng qua lại về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo ...
20/06/2011(Xem: 8398)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 5548)
Ký giả được xem công văn này trước nhất, liền cho mời Ông Viên Quang là Tổng thư ký của Hội Việt Nam Phật giáo đến bàn việc triệu tập Hội đồng để thảo luận việc quan trọng đó. Nhưng đến buổi họp thì ký giả chẳng may vừa bị cảm nặng, nhân có Cụ BÙI THIỆN CƠ, Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo đến thăm, bèn dặn với Cụ rằng: “Nếu Hội đồng có cử đến tôi, thì nhờ Cụ cố từ chối cho, vì tôi mới bị bệnh, hơn nữa còn bận nhiều công việc”. Sau buổi họp đó, Cụ BÙI THIỆN CƠ và Cụ TRẦN VĂN ĐẠI lại đến phòng bệnh cho biết rằng: “Hội đồng đã đề cử một vài vị Thượng toạ, nhưng các Ngài đều viện cớ rằng: Thượng toạ là Hội trưởng Hội Tăng Ni Bắc Việt lại là Phó Hội trưởng Hội Việt Nam Phật giáo, phải lấy tư cách ấy mà ứng phó với thơ mời của Chính phủ để gia nhập Phái đoàn Phật giáo Việt Nam thì đối với cả trong Thuyền gia lẫn người ngoài Thiện tín mới được danh chính ngôn thuận.
16/06/2011(Xem: 15827)
Thế Giới chỉ bắt đầu chú ý nhiều tới vấn đề Việt Nam và tới "những người Phật Giáo '' sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng ở Sài Gòn ngày 11.6.1963 để kêu gọi dư luận thế giới chú ý đến những khổ đau của dân chúng Việt Nam dưới những đàn áp của chính quyền Ngô Đình Diệm . Sở dĩ sự tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức đã khiến Tây phương xúc động và ngạc nhiên nhiều hơn Đông Phương là vì hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Tây phương khác với hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo Đông phương.
15/06/2011(Xem: 6286)
Năm ngoái khi ghé thăm nhà nuôi trẻ em nghèo của vợ chồng anh Trần Quang Lãm ở trên đường Ngũ Tây Xã Thủy An gần chùa Thuyền Tôn , tôi nói với anh là tôi muốn ghé lại thăm ngôi chùa nổi tiếng này , anh Lãm liền tặng tôi một cuốn tiểu sử thiền sư Liễu Quán và dặn là tôi nên ghé lại thăm ngôi bảo tháp của ngài Lúc bấy giờ tôi chỉ đi thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm , khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng. Thật vô cùng thú vị khi đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông .
15/06/2011(Xem: 3008)
1. Tín-ngưỡng ở Giao-châu Trước khi các tông-giáo tràn vào, người Việt chắc đã tôn-sùng những mãnh-lực thiên-nhiên, như núi sông, sấm chớp. Những di-tích còn lại không những ở trong tập-tục của dân-gian, mà trong điển-lệ tế-tự, nay còn những vị thần, được thờ tại rất nhiều nơi, mà không ai biết rõ gốc-tích từ đâu tới. Thần Cao-sơnchắc cũng là đức-thánh Tản-viên, thần Long-thủy có lẽ gốc ở thác Bờ. Lại như các đền hay "chùa" Pháp-Vân, Pháp-Vũ, Pháp-Lôi, Pháp-Điệnhẳn là di-tích các thần mây, mưa, sấm, chớp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]