Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy nghĩ về hệ thống tổ chức GHPGVN

10/04/201314:02(Xem: 4202)
Suy nghĩ về hệ thống tổ chức GHPGVN


MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ HỆ THỐNG TỒ CHỨC GIÁO HỘI CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Thích Phước An

1. Hoàn cảnh đau buồn của Phật Giáo Việt Nam hiện nay:

Khi cuộc vận động đòi kinh bình đẳng tôn giáo được chính thức phát động tại Huế vào Phật Đản 1963, thì lúc đó tôi mớichỉ là chú điệu học lớp đệ lục. Đã hơn ba thập niên qua rồi, vậy mà tôi vẫn còn nhớ như in cái không khí lo âu của những người cùng lứa tuổi như tôi vào một buổi chiều tại chùa Linh Sơn ở Đà Lạt, sau khi nghe đài BBC loan tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại ngã tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt ở Sài Gòn. Thực ra, lo âu thì ít nhưng sung sướng và hãnh diện thì nhiều.

Rồi tiếp theo là Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1-11-1963, rồi đầu năm 1964 một đại hội Phật giáo được tổ chức tại chùa Xá Lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, hai hệ thống tư tưởng lớn nhất của Phật giáo, hai hệ thống tư tưởng lớn nhất của Phật giáo là Đại thừa và Tiểu thừa được chính thức thống nhất ra đời. Chưa bao giờ tinh thần Phật Giáo của thời đại Lý - Trần lại sống dậy trong tâm hồn của những người tăng sĩ trẻ tuổi một cách mãnh liệt như vậy.

Nhưng niềm vui cũng như hy vọng đó chẳng bao lâu đã nhường chỗ cho nỗi lo âu và mất mác. Năm 1966 cũng tại Huế, Phật giáo đã phát động phong trào đòi tự do dân chủ. Chính cuộc vận động này là nguyên nhân đầu tiên đã dẫn đến chia rẽ trong hàng ngũ lãnh đạo Phật giáo.

Giao điểm đã chủ trương rất đúng khi viết : "Đã đến lúc phải nhìn lại chính mình trước tấm gương lạnh lùng và trung thực của sự thật. Đã đến lúc phải biết phân biệt để củng cố lại cái gì là bất biến và phát huy cái gì là tùy duyên. Bằng trí tuí tuệ Bát Nhã và bằng tâm nguyện Bồ Tát". Nếu chúng ta không can đảm nhìn vào sự thật như vậy thì đúng như lời nhận định của giáo sư Lý Nguyên Quán : "Như một căn bệnh không thể chữa lành khi người ta chỉ tìm cách che đậy, trốn tránh hay loanh quanh với những lý luận mơ hồ, không ăn nhập gì với hiện trạng".

Vậy bây giờ đã hơn ba thập niên qua rồi, ta thử tìm hiểu lý do nào mà chỉ trong khoảng chưa đầy ba năm, tính từ 1963 mà Phật giáo lại phải phát động thêm lại hai cuộc đấu tranh nữa chống lại hai chính phủ. Năm 1965 với chính phủ Trần Văn Hương và năm 1966 với chính phủ quân sự Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ :

- Lý do mà ta có thể dễ thấy nhất là, sau gần một thế kỷ bị kỳ thị và phá phách của thực dân Pháp và tiếp đến là chín năm dưới chính phủ Thiên Chúa giáo của Ngô Đình Diệm; nên các nhà lãnh đạo Phật giáo hầu như nghi ngờ hết tất cả các giới cầm quyền.

- Quá thất vọng khi thấy khí thế của cuộc cách mạng 1-11-1963 cứ tàn lại dần bởi những chính phủ kế tiếp.

- Còn một lý do nữa mà tôi cho là cũng rất quan trọng khiến Phật giáo cứ dấn thân mãi vào những cuộc đấu tranh là, sau thành công 1963, một số ít những nhà lãnh đạo Phật giáo hơi tự mãn. Từ sự tự mãn dẫn đến chủ quan. Vì vậy, đã đánh giá sai tình thực tế lúc đó là :

- Phật tử đã quá mệt mỏi sau các cuộc đấu tranh 1963 và 1965.

- Chiến tranh đã tràn vào các thành phố, nên đã rất có lợi cho các tướng lãnh cầm quyền. Họ sẽ viện lý do này để dập tắt cuộc đấu tranh, và trong thực tế họ đã làm như vậy.

- Các thể lực chính trị lúc nào cũng trong tư thế chuẩn bị lợi dụng cuộc đấu tranh của Phật giáo mà khai thác và lợi dụng, mà Phật giáo thì hầu như bất lực trong việc kiểm soát nội bột của chính mình.

Theo tôi, đó là những lý do khiến cho cuộc vận động đòi tự do dân chủ của Phật giáo đã thất bại.

Nhưng dù sao thì đó cũng là thất bại trong ngắn hạn, nghĩa là Phật giáo không đem lại một chính phủ dân chủ tức thời cho đất nước như mục tiêu mà Phật giáo đã đề ra. Nhưng nếu nhân dân miền Nam, đặc biệt là giới trí thức trẻ ở các thành thị đã trưởng thanh nhiều về mặt chính trị thì tất nhiên chính là nhờ những cuộc vận động liên tục của Phật giáo, dù Phật giáo đã phải trả một cái giá rất đắt. Tuy nhiên, tôi cho rằng những thế lực chính trị bên ngoài không phải là nguyên nhân chính đã gây ra phân hóa và chia rẽ Phật giáo Việt Nam từ năm 1963 đến nay, mà nguyên nhân chính là hệ thống tổ chức Giáo Hội.

Như chúng ta đều biết, hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), thiết lập cơ sở từ trung ương đến địa phương rập khuôn cách tổ chức của một nhà nước. Năm 1981, thì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPHVN) được thành lập. Mặc dù nội dung bản Hiến Chương khác xa nhau, nhưng cách sắp xếp các chức vụ để điều hành Phật sự thì lại hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác cách gọi mà thôi, vídụ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo thì đổi là Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương, còn Tổng Vụ Trưởng thư đổi là Trưởng Ban, các chức vụ ở Tỉnh và huyện cũng thế, Chánh Đại diện tỉnh thì nay gọi là Trưởng Ban Trị Sự Tỉnh v.v...

Thực ra, các nhà sáng lập ra GHPGVNTN đã cưu mang hoài bão rất lớn cho Phật giáo và dân tộc Việt Nam (được thể hiện qua lời mở đầu hiến chương, rất ngắn gọn nhưng lại súc tích vô cùng). Tuy nhiên hoài bão lớn nhưng lại quên đi vấn đề nhân sự để phục vụ trong cơ chế ấy. Tăng sĩ của Phật giáo Việt Nam tương đối khá đông, nhưng có được bao nhiêu tăng sĩ thỏng tay vào chợ đời mà không bị quyến rũ. Thực tế là từ năm 1963 đến nay, một số tăng sĩ đã xem hệ thống tổ chức của Giáo Hội như là nơi tiến thân rất tốt cho bản thân họ (Dù những tăng sĩ này chỉ là thiểu số, nhưng con sâu thì luôn luôn làm rầu nồi canh). Một số ít họ vào đạo để làm việc đó, vì việc tiến thân trong đạo có vẻ dễ hơn, vì họ đã có sẵn cái hình thức của kẻ đã vứt bỏ hết mọi ham muốn thế tục, mặc dù tâm niệm cũng như hành động của một thiểu số đó là thế tục hơn cả thế tục nữa.

Trước 1975, các tăng sĩ chỉ giữ các chức vụ trong giáo hội, thế nhưng không khí trong chốn thiền môn đã bắt đầu ô nhiễm bởi lợi danh giống như người thế gian rồi. Vậy mà từ 1981 đến nay, ngoài các chức vụ trong giáo hội, các tăng sĩ có điều kiện lại còn dòm ngó đến các chức vụ ngoài thế gian nữa, như thành viên mặt trận, hội đồng nhân dân tỉnh, thành, v.v... nên không khí trong chốn thiền môn đã bị ô nhiễm hơn. Đó là chưa nói đến việc các văn phòng của giáo hội hiện nay, không thiếu gì những ông xã trưởng, lý trưởng ở thời phong kiến, hay chủ tịch phường, chủ tịch xã trong những năm dưới thời bao cấp. Những tăng sĩ này ngồi đó, không phải để hướng dẫn Phật tử tu học và từ bỏ bởi những ràng buộc của thế gian, mà họ ngồi đó để tự khẳng định quyền hành của mình qua những nguyên tắc hành chính của thế gian vậy. Đúng như lời nhận định của giáo sư Lý Nguyên Quân : "Thiếu nội lực và yếu kém phẩm chất mà lại mang thân vào đời để đảm nhận các mặt thế trị phức tạp của một tổ chức giáo hội như yêu cầu mong muốn thì thật khó tránh được cái "họa sát thân". Cái họa đã rõ, ít ra là từ 1963 đến nay. Ngoại trừ một số vị giữ mình nghiêm mật, còn một số lớn đã không tránh được cái bả lợi danh của thế tục".

Đây quả là thực trạng đáng buồn và nhất là đáng xấu hổ của Phật Giáo Việt Nam hiện nay.

2. Nguyên nhân căn bệnh và phương pháp chữa trị

Bài "Phật Giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21" của Giáo sư Lý Nguyên Quân đăng ở "Phật Giáo trong thế kỷ mới" tập I do Giao Điểm xuất bản tại Hoa Kỳ 1996. Theo tôi, không những Giáo Sư đã nói lên được tấm lòng của chính mình mà dường như còn nói thay cho những người đã từng đem hết tấm lòng mình hiến dân cho Phật Giáo Việt Nam, hay những kẻ đã từng "khóc cười" với Phật Giáo Việt Nam, nói theo cách nói của giáo sư.

Cũng chính trong bài ấy, tác giả không những đã tìm thấy được nguyên nhân căn bệnh, mà gần như còn đưa ra được phương pháp để chữa trị căn bệnh trầm kha của Phật Giáo Việt Nam. Nghĩa là đã phát họa đại cương cho hướng đi của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ mới. Theo giáo sư Lý Nguyên Quân thì, Phật Giáo Việt Nam ít nhất là từ 1963 đến nay "cứ bị lôi cuốn hút vào con lốc của thời thế để không có được những quan tâm đúng mức nhu cầu sanh tử này của Phật giáo".

Nhu cầu sanh tử này là gì ? Giáo sư viết "Như xương sống của cơ thể, những trung tâm tu học và truyền thống tu tập là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật giáo xưa nay. Thử tượng tượng, Phật giáo Trung Hoa mà không có các bậc cổ đức đời đời nối tiếp thiếp lập các đạo tràng dịch kinh, giảng kinh, nói pháp, thành lập các pháp môn tu tập Thiền, Tịnh và các tòng lâm hướng dẫn đồ chúng tu tập thì di sản Phật Giáo Trung Hoa có còn gì ? Như Phật Giáo Nhật Bản, không phải là Tổng Hội Phật Giáo Nhật Bản, thường được xem là cơ cấu đại diện cho Phật Giáo Nhật Bản. Nắm mạng mạch của Phật giáo ở đây, mà chính là hệ thống của tông phái với những sắc thái sinh hoạt và truyền thống tu tập khác nhau được giữ gìn đã tạo nên cái sức sống cho Phật giáo xứ này. Phật Giáo Tây Tạng đang phải chịu đựng một trong những thảm kịch đau thương nhất của lịch sử dân tộc mà tương lai chưa biết thế nào thì Phật Giáo Tây Tạng theo cùng tình cảnh lưu vong của một phần dân tộc họ, lại đang ảnh hưởng lớn trong đời sống tâm linh và trí tuệ của con người

Tây phương".

Như vậy, qua kinh nghiệm của lịch sử Phật Giáo Nhật Bản, Trung Hoa và đặc biệt là vị trí của Phật Giáo Tây Tạng hiện nay thì, sở trường của Phật Giáo chính là những giá trị tâm linh siêu việt. Nhưng thế giới tâm kinh siêu việt lại chỉ thành tựu trong các tu viện, thiền viện, hay nơi những cá nhân sống âm thầm xa trần tục, chứ không phải tại các trụ sở Giáo Hội quá nặng nề thế trị như hiện nay. Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta muốn Phật giáo phải trở lại trong bốn bức tường thành của Thiền môn, vì một lối tu tập như vậy chẳng còn thích hợp với thời đại nữa. Nhưng chắc chắn, Phật Giáo Việt Nam muốn tồn tại và phát triển trong thế kỷ 21 thì phải bắt đầu ngay từ bây giờ củng cố cái xương sống của chính mình bằng cách trở lại các trung tâm nghiên cứu, thiền viện, tu viện, như đại tòng lâm để các tăng sĩ đủ phương tiện mà tăng trưởng trí tuệ và trau dồi đạo hạnh. Chúng ta tin chắc rằng, khi đời sống tâm linh và trí thức phát triển mạnh mẽ thì cái bả lợi danh của thế tục sẽ không còn dám bén mảng đến cổng tu viện nữa.

3.Vấn đề nguy hiểm mà tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam phải đối mặt trong thế kỷ 21

Không còn hồ nghi gì nữa, chắc chắn trong thế kỷ tới, đời sống đô thị sẽ phát triển rầm rộ ở Việt Nam. Văn minh đô thị đi đến đâu thì đời sống nặng nề về hưởng thụ sẽ đi đến đó. Đọc lịch sử Phật Giáo Nhật Bản chúng ta còn nhớ, có một thiền sư sống cách xa chúng ta hơn một ngàn năm rồi, vậy mà Ngài đã nhìn thấy được sự nguy hiểm của đời sống đô thị với đạo nghiệp của các tăng sĩ, vì những thế hệ đi trước Ngài đã hưởng thụ quá nhiều, người đó chính là Truyền Giác Đại Sư (DENYO DAISHI, 767-823). Chính Đại Sư đã chọn ngọn núi Tỉ Duệ (Hisi) cao nhất ngất ở Kyoto đề làn trung tâm hoạt động của Thiên Thai Tông, và cũng để cho các tăng sĩ thuộc phái Thiên Thai Tông tránh xa đời sống đô thị ở kinh đô Kyoto.

Điều mà Truyền Giác Đại Sư đã nhìn thấy hơn một ngàn năm trước bây giờ chẳng những đang lập lại, mà còn lập lại một cách nguy hiểm hơn nữa cho các tăng sĩ đang sống ở đô thị.

Báo chí Phật giáo trong nước trong thơi gian gần đây, đã can đảm phản ảnh rất nhiều về hiện tượng sa đọa của một số tăng sĩ đang sống tại các thành phố, nhất là những thành phố, nhất là những thành phố lớn như Sài Gòn chẳng hạn.

Và chúng ta, những tăng sĩ của Phật Giáo Việt Nam cũng phải can đảm mà thừa nhận rằng, hầu hết chúng ta đều không còn thích sống ở những nơi mà gần như thiếu vắng tiện nghi của đời sống đô thị, mặc dù hầu hết tăng sĩ Việt Nam đều được sanh ra và lớn lên ở các miền thôn dã. Nói như vậy, không có nghĩa là tăng sĩ phải trở về sống lại các chùa ở thôn dã, càng không phải sống thơ mộng như một bài thơ xưa, một túp lều tranh khiêm tốn trên núi cao, mà một nửa dành cho những đám mây trắng, còn nửa kia thì dành cho những nhà ẩn sĩ. Điều quan trọng là tăng sĩ chúng ta phải tự đấu tranh với chính mình để vượt qua những thú vui vật dục tầm thường mà đời sống đô thị đã quyến rũ chúng ta, phải vượt qua được thử thách đầy hiểm nguy này, thì chúng ta mới khẳng định được rằng, chính những giá trị tâm linh siêu việt của Phật giáo mới đem lại sự an lạc và hạnh phúc vĩnh cửu cho con người, còn các thú vui vật chất thì chỉ đem lại bất an và tạm bợ mà thôi.

4. Nhưng không phải chỉ có Phật Giáo Việt Nam mới sai lầm 

"Phật giáo dù đã vấp phải những lỗi lầm và ngu ngốc trong lịch sử của nó ở Nhật Bản, không có gì nghi ngờ rằng nó là một thế lực tâm linh rất mạnh đã từng bảo dưỡng dân Nhật, với tư cách một quốc gia cũng như trên phương tiện cá nhân, trong những công trình chung của văn minh. Không có Phật giáo, Nhật Bản tất nhiên không thể đạt tới trình độ văn hóa và khai phát hiện tại". (D. T. Suzuki, Thiền Luận, quyển hạ, Tuệ Sỹ dịch, NXB An Tiêm 1973).

Đoạn trên D. T. Suzuki muốn nói đến Phật Giáo Nhật Bản sau thời đại Kiến Thương (Kamakura, 1168-1334). Nghĩa là sau thời đại Kiến Thương chùa chiền dưới sự bảo trợ của các ông Hoàng và các lãnh chúa vẫn tiếp tục được xây cất nhiều hơn lên, giai cấp tăng lữ cũng thịnh hành hơn nhưng cũng phức tạp hơn, họ được hưởng quá nhiều đặc quyền đặc biệt. Nhưng Phật giáo thì lại đã mất hết sinh động, chỉ còn tồn tại như một tín ngưỡng, nặng nề về hình thức sùng bái, còn về mặt học thuật thì từ chương, suy lý và quá rườm rà.

Tuy nhiên, Phật giáo Nhật Bản, vẫn theo D. T. Suzuki cuối cùng đã tỉnh giấc ngủ say. khi chế độ phong kiến bị sụp đổ, Thiên Chúa giáo được truyền vào với những phương pháp tân kỳ và nắm vững các quan niệm tiên tiến, mặc dù Thiên Chúa giáo đã từng sống chung với Phật giáo một thời gian dài trước đó. Phật Giáo Nhật Bản không còn cách lựa chọn nào hơn, hoặc là bị diệt vong, hoặc là phải vùng dậy, bằng cách đào bới lại nguồn sinh động vẫn còn tiềm ẩn để phát triển và đã trở thành một Phật Giáo Nhật Bản huy hoàng như hiện nay.

Có lẽ, trường hợp Phật Giáo Nhật Bản có cái gì tương tự như trường hợp của Phật Giáo Việt Nam. Dường như lẽ thịnh suy thì ở nơi nào cũng thế, nếu có khác nhau thì chỉ khác ở chỗ là có sớm nhận ra sự sai lầm của mình để mà điều chỉnh hướng đi cho đúng cách không thôi.

Phật Giáo Việt Nam sau gần năm thế kỷ cực thịnh, thì bắt đầu suy yếu dần ở cuối đời nhà Trần. Đến đời Lê thì chùa chiền, tăng lữ vẫn còn đó, nhưng cũng đã mất hết sinh khi, và cũng chỉ tồn tại như một hình thức tín ngưỡng nặng nề cúng bái mà thôi. Phải đợi cho đến đầu thế kỷ 20, khi khoa học Tây phương vào và Thiên Chúa giáo, tôn giáo của kẻ xâm lược bắt đầu xâm lấn, thì Phật Giáo Việt Nam mới chịu thức tỉnh, mới khởi sự chấn hưng. Năm 1963 dường như Phật Giáo Việt Nam đã lấy lại được vị trí lịch sử của mình, nhưng chẳng bao lâu thì những oan nghiệp và ngang trái một lần nữa lại đến với Phật Giáo Việt Nam.

Nhưng chúng ta có đủ chứng cơ để tin rằng, đây là pháp nạn cuối cùng của Phật Giáo Việt Nam. Vì thế giới đã đổi thay, đất nước cũng đang thay đổi, lẽ nào Phật Giáo Việt Nam lại không như thế. Niềm hy vọng mà chúng ta có thể thấy được là, hiện nay Phật tử Việt Nam trong cũng như ngoài nước đều ý thức rằng, hơn ba thập niên qua Phật giáo đã lãng phí quá nhiều thời gian trong những cuộc tranh chấp với thế gian mà lại quên đi cái sở trường của chính mình. Một lần nữa, xin được nhắc lại lời của giáo sư Lý Nguyên Quân : "Như cái xương sống của cơ thể, những trung tâm tu học và truyền thống tu tập, đã là yếu tố quyết định tối hậu cho lịch sử hưng vong của Phật giáo xưa nay". (1)

Phật Giáo Nhật Bản cũng là từng phạm phải những sai lầm, nhưng cuối cùng đã vượt qua được để có một Phật Giáo Nhật Bản như ngày nay.

Cầu mong Phật Giáo Việt Nam cũng sẽ như vậy, để tăng ni, Phật tử trong và ngoài nước có điều kiện dựng xây lại Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ sắp đến, vẫn tiếp tục con đường mà Khuông Việt Thiền Sư, Vạn Hạnh Thiền Sư, Mãn Giác Thiền Sư, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Thái Tông Thiền Sư, Trần Nhân Tông Thiền Sư và tất cả những Thiền Sư khác của Lý Trần đã làm và nuôi dưỡng đời sống tâm linh cho toàn thểdân tộc vậy.

Chú thích :

1. Tất cả những đoạn trên đầu trích trong bài "Phật Giáo Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21" được in trong "Phật Giáo trong thế kỷ mới" do Giao Điểm xuất bản tại Mỹ 1996.


---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2018(Xem: 8491)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
21/03/2018(Xem: 15197)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5793)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5295)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14590)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 39915)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8039)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22166)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4913)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4098)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567