Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11_Phục Hồi và Sống Hài Hòa với Môi Trường Thiên Nhiên

13/11/202417:16(Xem: 140)
11_Phục Hồi và Sống Hài Hòa với Môi Trường Thiên Nhiên

day 2-hoi thao (16)
PHỤC HỒI VÀ SỐNG HÀI HÒA VỚI MÔI TRƯỜNG THIÊN NHIÊN

(RESTORING AND LIVING IN HARMONY WITH THE NATURAL ENVIRONMENT)
 Hòa Thượng Jayamedho Thera (Indonesia)
Thành viên WBSC Exco


THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG GÂY RA BỞI CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI

Hiện nay thế giới của chúng ta đang ở trong tình trạng không ổn định trong đó sự cân bằng giữa con người và thiên nhiên bị phá vỡ bởi sự ích kỷ và lòng tham của con người. Điều này dẫn đến việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên không đếm xỉa đến sự ổn định của trái đất, đưa đến hâm nóng địa cầu, các mùa bất thường, và thay đổi khí hậu, sự kiện này đem đau khổ đến cho nhân loại. Thêm vào đó, không gian xung quanh trái đất đang trải qua sự hủy hoại môi trường với các mảnh vụn của vệ tinh và các cố gắng quét dọn chúng không thỏa đáng. Chiến tranh kéo dài giữa Nga và Ukraine cũng như cuộc chiến đang diễn ra giữa Do Thái và HAMAS tại Palestine, có nhiều ảnh hưởng trên nền kinh thế thế giới, dẫn đến đói kém rộng khắp tại những quốc gia nằm dưới mức nghèo đói. Mặc dầu có nhiều bộ phận phụ trách về môi trường trong các chính phủ việc bỏ mặc môi trường vẫn tồn tại, có rất ít cố gắng nhằm giảm thiểu và ngăn chận. Trong những thành phố đông dân cư với những kỹ nghệ nặng không khí ô nhiễm tạo ra mối đe dọa cho người sống tại dó. Nước bj ô nhiễm khắp nơi tại những quốc gia đang mở mang, gây ra bởi ngành kỹ nghệ lẫn những cư dân thải rác rưởi vào sông và biển không chút hối hận. Điều khôi hài là tại nhiều nơi người ta không có nước sạch mà dùng. Những hậu quả tai hại của các hoạt động khai thác hầm mỏ, thi hành mà không tính chuyện đóng các hầm đã khai thác rồi là điều hiển nhiên. Việc phá rừng được phép hay bất hợp pháp đóng góp vào việc làm gia tăng nhiệt độ, khô hạn, và cháy rừng. Kết luận là các thách thức đòi hỏi mọi người cùng làm việc để bảo tồn và tái thiết lập sự cân bằng giữa con người và thiên nhiên.
ĐỨC PHẬT VÀ THIÊN NHIÊN
Sự liên kết giữa cuộc đời Đức Phật Thích Ca và thiên nhiên vô cùng mật thiết. Những sự kiện chính trong cuộc đời của Đức Phật Thích Ca có liên kết chặt chẽ với những hoàn cảnh tự nhiên, những hoàn cảnh dẫn đến giác ngộ. Chính Đức Phật dạy rằng trong cốt lõi “bản chất con người là tinh khiết, vô ngã, cũng như bầu trời tự nhiên trong sáng, không có mây mù. Mây đến rồi đi, những trời xanh vẫn mãi còn đó, và mây mù không thay đổi được bản chất căn bản của bầu trời. Tương tự như vậy, tâm con người về căn bản có tính trong sáng”.
Chúng ta biết rằng Thái tử Si Đạt Ta Thích Ca, Ngài Bố Tát, được sinh ra trong vùng thiên nhiên xinh đẹp gọi là Vườn Lâm Tỳ Ni. Khi Hoàng hậu Mahamaya du hành từ Kapilavastu tđến Devadaha bà đứng nắm cành cây và được chào đón bởi thiên nhiên vui vẻ, chim hót, hoa nở và sinh vật trên trời ca hát và tung hoa. Thấy tu khổ hạnh Gotama cũng đã phiêu lưu vào rừng và ngồi thiền tại Uruvela, cùng với năm đệ tử tu khổ hạnh. Cuối cùng Thầy tu khổ hạnh Gotama đạt được giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề trong tháng Vesak. Một sự cố đáng kể khác là khi Phật Thích Ca trình bày chi tiết Phật pháp trong Vườn Nai Isipatana, một sự kiện đã diễn ra ngoài trời, xung quanh lặng yên, trước sự hiện diện của các thần và người. Đức Phật cũng trải qua những ngày trước khi qua đời (parinibbāna), ngày này được biết trước, ngài yêu cầu các đệ tử vào rừng chuẩn bị phần cuối chuyến du hành phi thường của ngài tại Kusinara, nơi ngài được thiêu. Sự huy hoàng này, sống hài hòa với môi trường thiên nhiên đưa nhân loại lên tầm mức của sự vĩ đại và phẩm giá.
Trong kinh Vinaya Pitaka Pali, Đức Phật nêu lên những giáo lý liên quan đến môi trường và bảo tồn thiên nhiên để các tỳ kheo tuân theo. Những giáo lý này được đọc lên vào mỗi kỳ trăng tròn nhằm đảm bảo các tỳ kheo nhớ các giáo lý. Một số giáo lý bao gồm:
1. Các tỳ kheo phải tôn trọng cây bằng cách không chặt hạ cây, tỉa cành hay hái hoa, vì cây cần thiết cho việc cung cấp dưỡng khí cho các sinh vật. Lá cây sum suê tạo bóng mát cho nhiều sinh vật, có cả con người, súc vật và các chúng sinh mà ta không nhìn thấy. Không hái hoa là điều quan trọng vì hoa tạo ra quả và mật.
2. Các tỳ kheo bị cấm không được tiểu hay đại tiện trên cây cỏ hay dòng nước chảy vì nước cần thiết cho mọi sinh vật và sự sạch sẽ phải được giữ gìn.
3. Các tỳ kheo không được đào đất vì làm vậy có thể làm hại hay tiêu diệt các sinh vật sống trong đất và gây tổn hại cho các mầm cây cỏ.
4. Các tỳ kheo không được vứt bỏ các thức ăn dư thừa, dù cho đó chỉ là những hạt gạo, nhằm tỏ lòng kính trọng những người đã cho họ đồ ăn nuôi sống họ.
5. Các tỳ kheo phải sử dụng đồ lọc nước để tránh giết sinh vật, kể cả lăng quăng trong nước.
Thêm vào đó, tỳ kheo phải tôn trọng không khí trong sạch nơi môi trường thờ cúng bằng cách giảm thiểu khói nhang trong các sinh hoạt tôn giáo, vì sức khỏe của cộng đồng cần được bảo vệ. Những nguyên tắc này có thể áp dụng vào đời sống tập thể nói chung.
Vì vậy, với tư cách là một thành phần trọn vẹn của thiên nhiên, nhằm đạt được hạnh phúc cho đa số, chúng ta phải ôn hòa tìm chỗ đứng của mình với các thành viên thiên nhiên, bao gồm con người, súc vật, cây cỏ, cũng như đất, nước và không khí.
Sống hài hòa bên trong xã hội và thiên nhiên phải kèm theo việc hỗ trợ và giúp dỡ nhau hơn là phá hủy hay chỉ khai thác một cách ích kỷ làm lợi cho cá nhân. Sống hài hòa thực sự được dẫn đường bởi những cảm xúc tâm linh metta và karuna, những cảm xúc chứa đựng lòng từ bi và tử tế (metta karuna) và ý muốn hiến tặng hay giúp đỡ với lòng vị tha. Sống hài hòa trong Đạo Phật dựa trên sáu yếu tố trong đời sống của các thày tu:
1. Thống nhất nhũng quan điểm học thuyết
2. Thống nhất về mặt kinh tế trong sử dụng những vật dụng cộng đồng
3. Thống nhất về đạo đức trong việc tuân thủ giáo lý
4. Thống nhất tinh thần qua việc chia sẻ niềm hoan hỷ
5. Thống nhất trong lời nói qua việc nói lời yêu thương và không chỉ trích và chia rẽ
6. Thống nhất vật chất qua lối sống hài hòa trong cùng một cộng đồng

Hài hòa trong quan điểm: Trong đời sống tu tập tăng đoàn các sư thày và ni cô cùng chia sẻ quan điểm chung về Pháp, nguyên tắc hướng dẫn mọi việc họ làm. Cũng giống vậy, một xã hội có nhiều cơ may hơn để phồn thịnh khi những những người trong đó chia sẻ những quan điểm chung về chính trị và xã hội. Nếu chúng ta nhìn vào những quốc gia khác nhau trên thé giới, chúng ta thấy là có nhiều sự hợp tác và chung đường lối trong các quốc gia phồn thịnh hơn là trong những quốc gia kém phồn thịnh
Hài hòa trong kinh tế: Trong đời sống tu tập tăng đoàn mọi người xuất gia đều sống một cuộc đời giản dị và cùng sử dụng tài sản chung. Trong thế giới thế tục một xã hội đương nhiên bất ổn định nếu có quá nhiều sai biệt giữa nhũng người có và những người không có. Cũng vậy, ít có cố gắng tạo sự tương đồng chừng nào thì khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng lớn. Vì vậy, những người giàu có phải giúp những người kém may mắn hơn, Những ai có năng lực phải giúp những ai không có năng lực.
Hài hòa trong đạo đức: Trong đời sống tu tập tăng đoàn mọi người đều chia sẻ cùng một quy tắc đao đức. Trong xã hội mọi người phải bình đẳng trước pháp luật. Không ai được đứng bên trên luật pháp. Khi luật được áp dụng công bằng và đúng đắn cho mọi người, người ta sẽ tôn tọng luật pháp và có khuynh hướng tuân theo luật.
Hài hòa trong triển vọng: Trong đời sống tu tập tăng đoàn mọi người chia sẻ mục tiêu chung là phát triển tâm linh. Trong xã hội khi chúng ta lo lắng cho hạnh phúc của người khác là chúng ta chấp nhận người khác và không ghen tị các thành công của họ hay chỉ trích các yếu kém của họ. Chúng ta tìm cách đề cao các người đồng hương thay vì dìm họ xuống. Sự công bằng, hỗ trợ và công nhận tạo nền tảng cho cuộc sống yên ổn. Với sự hài hòa trong triển vọng, mọi nơi đều là tịnh độ.
Hài hòa trong lời nói: Trong đời sống tu tập tăng đoàn các sư thày và ni cô thực hành việc nói ra những lời yêu thương và tránh chỉ trích và chia rẽ. Cách thực hành này thúc đẩy sự hài hòa trong cộng đồng của họ. Trong xã hội những sự hiểu lầm và thù ghét thường nổi lên từ những câu nói vụng về hay nặng nề. Do đó, thành thật và có suy nghĩ trong lời nói thường dẫn đến sự hài hòa trong quan hệ giữa con người với nhau.
Hài hòa trong hành động: Trong đời sống tu tập tăng đoàn các sư thày và ni cô tuân theo những nghi lế và nghi thức hành lễ như nhau. Trong xã hội những hành động của chúng ta có thể dùng để giúp đỡ nhau và nâng cao sự kính trọng trên thế giới. Làm vậy chúng ta có thể cùng sống chung hòa bình trong cộng đồng.

KẾT LUẬN
Nhằm sống hài hòa với môi trường, cộng đồng tại các tu viện (Vihara) và trong Tăng đoàn (Sangha) cam kết tham gia một phong trào kiến tạo hài hòa môi trường cùng với chính quyền và các tổ chức bảo tồn môi trường. Các tổ chức Phật giáo và các tu viện phải phát động các chương trình làm việc tập trung vào biệc bảo tồn môi trường, như là:
1. Trồng cây quanh tu viện hay các nơi bị ảnh hưởng bởi nạn phá rừng.
2. Giữ cho chùa có cây cỏ xanh tươi bên trong khu tu viện bằng cách tạo lỗ sinh học (biopore) và phủ cây xanh, chẳng hạn như tạo ra các vườn hoa kiểu Nhật. Nên tránh đốt rác bên trong môi trường tu viện và những biện pháp tương tự.
3. Giữ cho nước giếng lúc nào cũng có sẵn và nước con sông quanh tu viện được sạch sẽ. Giữ sự yên tịnh bên trong môi trường tu viện bằng cách kiểm soát tiếng động từ các loa phóng thanh hay âm nhạc phá tan sự yên lặng.
4. Duy trì các quan hệ hài hòa giữa các thành viên tăng đoàn và giữa họ với phật tử đến chùa bằng cách tươi cười, chào đón, và mới họ trải nghiệm sự thanh tịnh của tu viện. Tạo ra các chương trình và thực hiện chúng đẻ tránh ô nhiễm nước, đất, không khí và âm thanh nhằm tạo một môi trường lành mạnh.
5. Đối xử với súc vật đầy lòng nhân đạo, yêu thương chúng, không tàn nhẫn khi săn sóc, chuyên chở và trong quá trình làm thịt chúng.
Một tấm gương bảo vệ môi trường theo đạo Phật là cách hành động của chính phủ Bhutan, cách này được dân chúng xứ đó ủng hộ và được thế giới thán phục vì đã phản ánh những nguyên tắc của Phật giáo. Cách hành động đó bảo đảm sự tôn kính và bảo vệ đất đai, nước, không khí và các liên kết giữa những con người với nhau

Batu, Indonesia
16 tháng giêng 202
Nguồn: Living Affinity, Đại Đức Hsing Yun
Chơn Thanh Chu Bảo Cảnh chuyễn ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10150)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8752)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4386)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4613)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5511)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4775)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9836)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 4919)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 22672)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18543)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]