Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8_Hài hòa Sinh Thái, Sự Sống còn của Nhân loại và Sự Ổn định

13/11/202412:01(Xem: 140)
8_Hài hòa Sinh Thái, Sự Sống còn của Nhân loại và Sự Ổn định


day 2-hoi thao (45)
Hài hòa Sinh Thái, Sự Sống còn của Nhân loại và

Sự Ổn định

(Ecological Harmony, The Existence of Mankind, and Sustainability)

Prajna, Chủ tịch Hiệp Hội Phật giáo Úc Châu


Nhân loại đã phát triển đến ngày nay cùng với khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, thông qua sự khôn khéo và trí tuệ con người đã thích nghi thành công, bắt đầu là tổ tiên chúng ta thích nghi với thiên nhiên, in dấu chân lên thời đại hiện nay và chúng ta hiểu cách sử dụng tài nguyên mà thiên nhiên đã ban cho chúng ta. Chúng ta sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hữu hiệu và có năng suất, tìm tòi nghiên cứu, chế ra những sản phẩm công nghệ cao, hội nhập kỹ thuật cao nhằm phục vụ nhân loại, những sự phát triển này đã đạt đến vô số người và đưa nhân loại đến một cuộc sống hạnh phúc hơn. Điều này không thể đạt được không có sự hiểu biết về hình thái học (morphology), bao gồm việc hiểu là mọi thứ chúng ta dùng, như phi thuyền đưa ta vào không gian hay cái gì đó nhỏ như con chip điện tử trong điện thoại di động của chúng ta đều không tách rời khỏi vật chất, món quà của Tạo hóa ban cho chúng ta.

Vì lý do này chúng ta không ngừng đòi hỏi thiên nhiên, và khi môt nguồn năng lượng nào đó cạn kiệt chúng ta phải tìm một chất khác để thay thế, điều này cho thấy ngày nào nhân loại còn phát triển nhanh chóng như vậy chúng ta sẽ không bao giờ ngừng cướp bóc tài nguyên từ thiên nhiên.

Trong nền văn minh hiện đại chúng ta thực sự sống trong một thời kỳ rất mâu thuẫn. Thí dụ, có quá nhiều tài năng đã được rèn luyện nhưng không có chỗ đứng cho họ. Một thí dụ khác là tiền tài đến rất nhanh, sự liên lạc giữa con người với nhau rất thuận tiện và những kẻ gian có thể làm cho tiền trong thẻ ngân hàng của quý vị biến mất trong vài phút.

Trong nền văn minh tân tiến này chúng ta sống từng phút. Nhiều người chọn không tương tác với xã hội và sống như củ khoai nằm êm một chỗ.  Lượng thông tin khổng lồ, nhịp sống nhanh, sự bối rối và căng thẳng cao độ do làm việc gây ra tổn thương cho thân thể và đầu óc con người ngày nay. Sự suy sụp lòng tin, thoái hóa đạo đức, trống rỗng tinh thần, và tâm lý bi quan đã trở nên những vấn đề xã hội chung. Từ sống sót trong thiên nhiên và sống trong rừng già và núi non, con người đã chinh phục thiên nhiên và thay thế rừng già bằng những cao ốc bằng thép.

Cứ tuần tự, chúng ta mất dịp thưởng thức không khí thơ mộng đầy tiếng chim hót và hoa thơm, chỉ còn nghe tiếng gầm của xe hơi và âm thanh của tiếng thở dồn dập và những bước chân vội vã. Đáng lý chúng ta đã được bao quanh bởi phong cảnh tươi đẹp, nhưng vì ham muốn chúng ta đã làm nô lệ cho những vật chất, từ đó chúng ta bị bao vây bởi bối rối, nông nổi, trầm cảm, lo lắng, khó chịu và các cảm xúc xấu khác, làm cho tâm chúng ta  không lưc nào ngơi nghỉ hay sống ôn hòa. Có câu nói:” Tất cả được tâm con người tạo ra. Quý vị không biết mình tạo ra cái gì. Núi và sông không còn là những gì mà chúng hiện là ngày nay. Khi nào thì điều ác dừng lại?”  Hôm nay chúng ta có duyên cùng nhau tụ họp, để bàn về đề tài chánh là

“ trở về thiên nhiên và chung sống hòa bình”. Chính xác là nêu lên những thiếu sót hiện nay để giúp cho các thế hệ tương lai. Tâm điểm của những gì nói trên dây thu gọn vào ba điểm:

 ( 1 ) Mọi thứ được tạo ra là quà tặng cho chúng ta, vì vậy chúng ta phải ngưng làm hư hỏng và tổn thương thiên nhiên.

( 2 ) Khi con người bước đi trong thành phố đầy những cao ốc bằng thép thì không còn nghi ngờ gì mọi thứ khó chịu và lo lắng sẽ xuất hiện.  Ngược lại, nếu chúng ta sống trong một thiên nhiên đầy phong cảnh đẹp, sự yên tĩnh, bông hoa, cây cỏ, hoặc nếu con người chung sống hài hòa với thiên nhiên thì cuộc sống của chúng sẽ tràn đây sự thanh tịnh và cảm xúc vui vẻ.

( 3 ) Có thể nào con người lập được tịnh độ thật sự trên trái đất không?

Đời nhà Tống bên Trung Hoa, Thiền sư Wy Men Hui Kai viết một bài thơ Thiền như sau:

“Có hàng trăm bông hoa vào mùa Xuân, một mặt trăng vào mùa Thu, một cơn gió mát vào mùa hè và tuyết vào mùa đông.  Nếu không có gì phải lo thì đó là mùa đẹp nhất trên thế giới.” Đây là bài thơ dạy ta thụ hưởng mọi thứ đã được tạo ra và có tinh thần thoải mái. Thật vậy, niềm vui ngọt ngào nhất trên thế gian này là niềm vui xưa nhất.

Tại đây, cầu thơ đầu tiên :” Có hàng trăm bông hoa vào mùa Xuân, và một mặt trăng vào mùa Thu " phản ảnh ba điểm mà tôi muốn nói:” Chúng ta phải bảo vệ thiên nhiên”, “Hãy tập sống đơn giản và ngưng phung phí”.

1. Bảo vệ thiên nhiên:

Có một châm ngôn Trung Hoa cổ xưa “môi hở răng lạnh”. Câu này đến từ cuốn tự truyện “Năm thứ năm của Quận công Xi”. Ý nghĩa gốc dính liền với câu chuyện theo đó nước Jin mượn đường nước Yu để sang đánh nước Guo. Ý nghĩa theo thời gian truyền đến ngày nay. Môi hở răng lạnh bao hàm một sự tương quan chặt chẽ.

Thật vậy, chúng ta cần không gian để thở vì đâu có thể nói mình không cần thở. Chúng ta cũng cần ăn thực phẩm thiên nhiên bổ dưỡng, vì làm sao mà ăn liên tục thực phẩm ăn liền và có chất hóa học.  Khi ốm đau chúng ta không thể cứ nhắm nằm hoài ở bệnh viện và dựa vào đủ thứ thuốc để chữa bệnh.

Con người ta ai cũng cần thở, nếu chúng ta không bảo vệ thiên nhiên, tái tạo hệ sinh thái thì làm sao chúng ta có khí trời tươi mát mà thở. Làm sao chúng ta có thể ngắm trời xanh, bầu trời với muôn sao lấp lánh về đêm? Làm sao chúng ta có thể nói là những bông hoa mình trồng trông thật đẹp?

Do đó chúng ta cần bảo vệ thiên nhiên.Khi bảo vệ thiên nhiên chúng ta bơm chất bổ vào đời sống mình. Mặt khác nếu không khí, biển cả và bầu trời bị ô nhiễm, nếu thực phẩm chúng ta ăn được làm bằng các món bị ô nhiễm thì thật sự chúng ta ở trong “thế giới có năm vẩn đục.”

Trong Đạo Phật chúng ta có kinh A Di Đà, đây chính là “kinh hướng dẫn chúng ta bảo vệ môi trường”. Lý do vì kinh nói về chim, về năm gốc rễ, năm quyền lực, bảy điểm bồ đề và bát chánh đạo.” Điều này bao hàm việc môi trường rất tốt, mình cảm thấy chim chóc cũng sung sướng. Phật pháp ở khắp nơi và pháp làm cho con người được hạnh phúc. Nếu ta biết săn sóc môi trường, là ta biết bảo vệ chính cuộc sống của mình, lúc đó mọi vật sẽ sống chung hài hòa. Đó có phải là cõi “tịnh độ” mà Đức Phật đã nói không? Phật cũng dạy chúng ta nên giữ tâm trong sáng và niệm hồng danh Phật một ngày hay suốt bảy ngày. Thật sự Phật dạy chúng ta biết kiên nhẫn trong mọi việc mình làm và không bỏ ngang.  Ngày làm việc vẫn là một ngày trong tuần và động cơ thúc đẩy phải lức nào cũng trong sạch.   Vì vậy mọi thứ trong vũ trụ không thể nào có được trong một ngày hay một năm. Sự thật chúng ta phải săn sóc và yêu chúng và chiều chuộng chúng vào mọi lúc. Đức Phật cũng đã nói:” con người ta không thể nào không có gốc rễ tốt, ân huệ, đạo đức và nhân duyên để được sinh ra nơi đất lành”. Hiểu như vậy chúng ta cần có gốc rễ tốt, lớn ra thành rễ tốt thật lớn và có ý định về lâu vè dài “săn sóc môi trường” để rồi một ngày kia chúng ta có thể nói “trong miền đất lành này hãy yên vui hoặc yên nghỉ”. Tôi sẽ không đi vào chi tiết về cách làm thế nào để bảo vệ thiên nhiên.  Tôi tin rằng “môi trường thiên nhiên, các cơ quan y tế và an ninh ” của chúng ta có đủ sức để hướng dẫn chúng ta bảo tồn thiên nhiên.

Đừng 2. Đừng làm tổn hại thiên nhiên:

Subscribe to DeepL Pro to edit this document.
Visit www.DeepL.com/pro for more information.

 
Bảo vệ thiên nhiên phải đứng đầu, kế tiếp là bàn cách khỏi làm tổn thương thiên nhiên. Điều này cũng giống như là đạt đến hạnh phúc không phải là dễ và nếu điều đó chẳng may bị tiêu hủy thì chưa chắc đã phục hồi được sau hàng chục hay hàng trăm năm, thí dụ, thải nước ra biển có thể dẫn đến tiêu diệt một số sinh vật và có thể tác động đến cả một chuỗi đời sống trong biển, và cũng có thể ảnh hưởng toàn bộ đời sống của những người sống cạnh biển, chẳng lẽ chúng ta mong chờ họ dời chỗ ở để lên núi sống hay sao?

Trong Đạo Phật có những giới luật khắt khe, thí dụ nơi sống và nơi tu tập phải hài hòa với thiên nhiên, và chúng ta không được phá hủy cây cối và rừng. Lý do có nhiều sinh vật cũng cần một nơi để nghỉ ngơi, một nơi yên ổn để sống, chặt một cây to có thể làm cho biết bao con chim mất nhà và khu vườn nơi chúng vui chơi. Thêm vào đó, trong Đạo Phật Thiền các  thày dạy về Thiền ưa sử dụng “các bài kinh thiên nhiên” để trêu chọc và lôi cuốn học viên . Thí dụ, có người hỏi Thày Zhao Zhou “Tổ tiên đến từ phương Tây nghĩa là gì?” Zhao Zhou nói “Có một cây thông đằng trước vườn”. Có một cây thông đằng trước vườn ! Điều tôi muốn nói là quý vị đã đi hàng ngàn dặm đến đây chỉ để hỏi tôi “Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói gì?”.  Quý vị không biết là Phật Thích Ca Mâu Ni giác ngộ dưới một gốc cây sao? Tôi có một cây thông trước cửa, hãy đi và thiền dưới gốc cây ấy đi. Triết lý: cây này thay đổi từ một hạt giống thành một cây to, nó cho thấy cuộc sống, nhân quả và tình trạng của mình. Để nhận thức và hiểu Pháp (Dharma), nói Pháp chưa đủ, chúng ta cần dùng trái tim để cảm nhận, để ý thức và hoà nhập với thiên nhiên. Đây chính là Thiền trong đó

ta hiện diện trong mọi Pháp và mọi Pháp hiện diện trong tim ta.

Kết luận:

Sự phức tạp của xã hội tân tiến đã làm con người mất đi không gian tự do để sống, và sống trong một môi trường phức tạp như vậy, những ảo tưởng và lo lắng đang lớn mạnh chưa từng thấy. Chúng ta tiếp tục làm việc không nghỉ ngơi, và cuối cùng mất đi sự khôn ngoan mà con người cần có. Do đó chúng ta có thật nhiều tiền nhưng chúng ta không mạnh khỏe, chúng ta có nhiều quyền lực nhưng chúng ta không hạnh phúc. Chúng ta chỉ sử dụng cuộc sống, quên mất những nền tảng của cuộc sống, quên mất rằng cuộc sống là một chuỗi ánh sáng liên tục, quên mất rằng cuộc sống chỉ là một trạm dừng giữa muôn vàn công tác, và lại còn quên mất cả cách thụ hưởng cuộc sống!

Có bao giờ chúng ta tự hỏi: còn được bao nhiêu gió mát? Còn được bao nhiêu nước? Còn được bao nhiêu rừng rậm? Còn được bao nhiêu thú rừng? Nếu chúng ta không dừng tàn phá thiên một cách vô trách nhiệm, một ngày kia chúng ta sẽ lãnh trọn những trừng phạt do các thảm họa mà chính bàn tay chúng ta tạo ra. Thật vậy, các dấu hiệu đầu tiên đã xuất hiện nơi đây, giờ đây là lúc cần cảnh giác.

Trong cả ngàn năm qua chúng ta đã theo đuổi tinh thần nghiệp và phụ thuộc lẫn nhau. Mọi người phải biết ơn thiên nhiên, nâng niu và săn sóc thiên nhiên, chỉ có bằng cách đó chúng ta mới hoàn toàn vui hưởng thiên nhiên và tìm thấy hạnh phúc trong đó.

Chơn Thanh Chu Bảo Cảnh chuyễn ngữ

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 10150)
Nhằm mục đích giúp cho những bệnh nhân vào thời kỳ cuối của bệnh ung thư sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời một cách thanh thản, bình yên về mặt tinh thần cũng như tâm linh trên phương diện y tế được đón nhận sự chăm sóc một cách toàn diện về thân thể, tâm lý và xã hội. Vào ngày 8 tháng 8 năm 1996 Bệnh Viện Đa Khoa Từ Tế Phật Giáo ở Hoa Liên Đài Loan đã thành lập "AN NINH LIỆU HỘ BỆNH PHÒNG"chuyên môn chăm sóc những bệnh nhân thời kỳ cuối của bệnh ung thư và được Ni Sư Chứng Nghiêm (người sáng lập Hội Từ Tế) đặt tên là "Tâm Liên Bệnh Phòng".
10/04/2013(Xem: 8752)
Ngài Huyền Trang là Cao Tăng đời nhà Đường. Ngài phụng mệnh Đường Thái Tông sang Ấn Độ thỉnh Kinh. Hành trình trên 10 năm thỉnh về hơn 650 bộ Kinh. Sau đó, Ngài đã cùng đệ tử dịch ra Hán Văn được 75 bộ gồm 1335 quyển. Đối với sự phát triển của Phật Giáo Trung Quốc. Ngài là một người có công rất lớn.
10/04/2013(Xem: 4386)
Vùng đất hiện nay được gọi là Mông Cổ cho mãi đến thế kỷ XIII mới có được lịch sử theo tư liệu văn bản. Vào khoảng thế kỷ IX-X, bộ lạc Khiết Đan (Kidans), một bộ lạc nói tiếng Mông Cổ, thành lập nước Đại Liêu ở miền Bắc Trung Quốc. Đến thế kỷ XI-XII, tất cả các bộ lạc Mông bước vào lịch sử được biết dưới các tên Nguyên Mông, Tartar, Kerait và Jalair; họ thường gây hấn và chém giết lẫn nhau cho đến khi một lạc trưởng tên Temudjin chinh phục và thống nhất tất cả, đặt tên chung là Mongol và tự xưng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
10/04/2013(Xem: 4613)
Nhân một thiện duyên, chúng tôi đọc thấy một tài liệu ngắn giới thiệu một chương trình thu tập các tư liệu gồm các thủ bản và mộc bản quý hiếm đánh dấu sự hiện hữu của Phật giáo tại Mông Cổ từ khi đất nước này bắt đầu có sử liệu vào khoảng thế kỷ XIII. Đây là một lĩnh vực chúng tôi chưa học hiểu đến, nhưng cảm thấy tài liệu này có giá trị sử học và nghiên cứu, nhất là hiện tại còn rất ít thông tin về nền Phật giáo tại Mông Cổ, cho nên cố gắng lược dẫn tài liệu này để cống hiến độc giả NSGN và những ai quan tâm đến sự phát triển của Phật giáo trên thế giới.
10/04/2013(Xem: 5511)
Nhật báo Orange County Register hôm chủ nhật 19-1-2003 đã bắt đầu đăng phần thứ nhất trong loạt bài 4 kỳ về một tu sĩ trẻ Việt Nam -- 16 tuổi -- đang tu học trong 1 Phật học viện ở Ấn Ðộ của Phật Giáo Tây Tạng.
10/04/2013(Xem: 4775)
Trên tay tôi là 2 cuốn sách, một cuốn là Phật Giáo Khắp Thế Giới (Buddhism throughout the World) của tác giả Thích Nguyên Tạng, xuất bản lần thứ nhất năm 2001 tại Australia và cuốn kia là Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới của Thiền Sư Định Lực và Cư sĩ Nhất Tâm, do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Thông Tin in xong vào tháng 1 năm 2003 mà tôi vừa mới mua.
10/04/2013(Xem: 9836)
Quyển “Phật Giáo Việt Nam và Thế Giới” (PGVNvTG) của Thiền sư [sic] Định Lực và Cư sĩ [sic] Nhất Tâm biên soạn [sic], được NXB Văn Hoá Thông Tin cấp giấy phép số 1715/XB-QLXB của Cục Xuất Bản ngày 11-12-2001, có mặt trên thị trường sách khoảng giữa năm 2003. Sách dày 632 trang, khổ 16x24 cm, được in trên giấy couche, bìa cứng, rất sang trọng. Sách được xuất bản theo dạng “đội mủ” của quyển “Tôn Giáo và Lịch Sử Văn Minh Nhân Loại,”
10/04/2013(Xem: 4919)
Cuối tháng 3 năm 2004, tại TP Hồ Chí Minh diễn ra một hội sách mang tính quốc tế với sự góp mặt của hầu hết các nhà xuất bản trong nước cũng như một số nhà xuất bản uy tín nước ngoài. Có thể thấy ngay được những cố gắng của nhà nước trong quản lý văn hóa, nhằm tôn vinh giá trị của văn hóa đọc, một kỹ năng luôn cần cho con người trong quá trình phát triển ở mọi thời đại. Ðiều này cũng nằm trong chủ trương xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc mà nhà nước đã và đang cổ súy.
09/04/2013(Xem: 22673)
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
09/04/2013(Xem: 18543)
Năm 1957, chúng tôi tu học tại cao đẳng Phật học viện Srisumana Vidyalaya, đồng thời theo học trường Srisumana College, tỉnh Ratnapura, nước Srilanka. Theo Phật lịch thì năm 1957 là đúng 2500 năm tính theo tuổi thọ 5000 năm giáo pháp của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Chánh phủ Ấn Độ lần đầu tiên mở cửa cho các hành Phật tử trên thế giới được đến hành hương bốn thánh địa và những địa danh Phật tích chỉ trả nửa giá tiền trong các tuyến đường xe lửa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]