Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Các ngôn ngữ của Ấn

06/01/201206:49(Xem: 5845)
1. Các ngôn ngữ của Ấn

LỊCH SỬ VĂN MINH ẤN ĐỘ 

Tác giả: Will Durant - Nguyễn Hiến Lê dịch

CHƯƠNG VII

VĂN HỌC ẤN ĐỘ

I. CÁC NGÔN NGỮ CỦA ẤN

Tiếng Sanscrit – Các thổ ngữ - Ngữ pháp.

Ở châu Âu thời Trung cổ, các tác phẩm triết học và đa số các tác phẩm văn học đều viết bằng một tử ngữ, quần chúng không hiểu, thì ở Ấn cũng vậy, các tác phẩm triết học và văn học thời cổ điển đều viết bằng tiếng Sanscrit, một ngôn ngữ đã từ lâu lắm không ai nói, nhưng vẫn còn được dùng như một espéranto (thế giới ngữ) trong giới các học giả để trao đổi tư tưởng với nhau[1]. Vì không còn liên hệ tới đời sống của dân tộc, thứ ngôn ngữ văn chương đó lần lần hoá ra cực cầu kì, cổ hủ, rởm; nó không thu nhận những từ ngữ do dân chúng tự nhiên tạo ra, mà muốn thoả mãn nhu cầu dạy giáo lí, nó phải nguỵ tạo thêm dụng ngữ, tới nỗi rốt cuộc tiếng Sanscrit của các triết gia mất hết sự giản dị hùng tráng trong các thánh ca của các kinh Vedamà thành một thứ tiếng kì quái có những từ (mot) dài vô tận y như những con sán ghê tởm trườn hết hàng trên xuống đến hàng dưới[2].

Nhưng vào khoảng thế kỉ thứ V trước Công nguyên, dân chúng miền Bắc Ấn Độ đã biến đổi tiếng Sanscritthành tiếng Prakrit, cũng gần như người Ý biến đổi tiếng La Tinh thành tiếng Ý; tiếng Prakritđược dùng trong một thời gian để truyền bá đạo Phật và đạo Jaïn, rồi lại biến đổi để thành tiếng Pali, những kinh, sách cổ nhất của đạo Phật hiện nay chúng ta còn giữ được viết bằng tiếng Paliđó. Khoảng cuối thế kỉ thứ X sau Công nguyên, những “Ấn ngữ chuyển tiếp” đó phát sinh ra nhiều thổ ngữ mà thổ ngữ quan trọng nhất là tiếng Hindi. Tới thế kỉ XII, tiếng Hindichuyển thành tiếng Hindoustanimà nửa Ấn Độ ở miền Bắc đều dùng. Sau cùng bọn xâm lăng Hồi đưa vào tiếng Hindoustanirất nhiều từ ngữ Ba Tư và biến nó thành một thổ ngữ mới, thổ ngữ Urdu. Tất cả những ngôn ngữ đó đều là những ngôn ngữ “Ấn - Nhật nhĩ man” không lan ra khỏi miền Indoustan (miền Bắc); miền Deccan ở cực Nam bán đảo vẫn giữ những cổ ngữ của dân tộc Dravidien như tiếng Tamul[3], Telugu, Kanarese, Malayalam, nhưng tiếng Tamulmới chính là ngôn ngữ văn chương của miền Nam. Thế kỉ XIX, ở Bengale, tiếng Bengalithay tiếng Sanscritmà thành ngôn ngữ văn chương; nhà kể truyện Chatterjeelà Boccace của miền Bengale, còn thi sĩ Rabindranath Tagore là Pétrarque[4] của miền đó. Hiện nay ở Ấn còn cả trăm ngôn ngữ khác nhau. Còn phong trào Swaraj[5] thì dùng ngôn ngữ của bọn xâm lăng.
Ngay từ sớm lắm, người Ấn đã nghiên cứu về nguồn gốc, diên cách[6], sự liên quan và cách tổ hợp các từ ngữ. Từ thế kỉ thứ IV trước Công nguyên, họ đã tạo ra môn ngữ pháp[7], và Panini có lẽ là nhà ngữ pháp vĩ đại nhất của mọi thời. Các công trình nghiên cứu của Panini, của Patanjali (khoảng 150 sau Công nguyên) và của Bhartrihari (khoảng 650) đã đặt nền tảng cho ngôn ngữ học; và môn học rất thích thú về cách thức các từ ngữ sinh ra lẫn nhau, sở dĩ xuất hiện được phần lớn là nhờ một sự phát kiến mới về tiếng Sanscrithồi tương đối gần đây.
Như chúng tôi đã nói, thời Veda, người Ấn ít dùng chữ viết. Thứ cổ tự Kharosthixuất hiện khoảng thế kỉ thứ V trước Công nguyên và phỏng theo chữ Sémitique[của các dân tộc cổ ở Syrie, Mésopotamie]. Trong các thiên anh hùng ca và các kinh sách đạo Phật đã thấy nhắc tới những người chuyên làm nghề viết chữ[8]. Thời đó họ viết trên lá cây[9] hay vỏ cây, bút là một cây sắt đầu nhọn; trước hết người ta phải dùng một cách làm cho vỏ cây hoá dai hơn, rồi dùng đầu cây sắt người ta vạch thành chữ chìm lên vỏ cây, sau cùng đổ một thứ mực lên, một lát sau, người ta chùi một lượt, mực chỉ còn thấm vào các nét gạch lên vỏ cây, tức các nét chữ. Chính người Hồi đã du nhập giấy viết vào Ấn, vào khoảng 1.000 sau Công nguyên, nhưng mãi tới thế kỉ XVII, giấy mới hoàn toàn thay thế vỏ cây. Người ta lấy dây xâu vào những trang bằng vỏ cây đó, đóng thành những cuốn sách cất trong các thư viện mà người Ấn gọi là “kho tàng của nữ thần Ngôn ngữ”. Có những tùng thư vĩ đại bằng vỏ cây đó thoát được sự tàn phá của chiến tranh và thời gian mà lưu truyền tới ngày nay[10].

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/11/2012(Xem: 5511)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
15/08/2012(Xem: 6251)
Truyền thống Kadampa của Phật giáo Tây Tạng xuất hiện trong thế kỷ mười một vô cùng tích cực và sáng tạo. Trường phái này do Đạo sư Ấn Độ Atisha (982-1054) sáng lập. Ngài đến Tây Tạng năm 1042. Mặc dù trường phái này không tồn tại thật bền vững như một truyền thống độc lập, nó đã thâm nhập vào các trường phái khác và vì thế để lại một ảnh hưởng lâu dài.
08/06/2012(Xem: 6339)
Mọi người dù có học thức hay không học thức, giàu hay nghèo, đen hay trắng, ngay cả xanh dương hay xanh lục; đều giống nhau. Tôi không xem chính trị tự nó là điều gì đấy sai lạc, nhưng bởi vì người ta sử dụng chính trị vì mục đích ích kỷ, và cuối cùng chính trị trở thành dơ bẩn. Trong tôn giáo cũng vậy, nếu con người sử dụng trong cung cách sai lầm thì tôn giáo cũng trở thành tôn giáo dơ bẩn. Ở đây tôi hưởng thụ tự do ngôn luận, tự do tư duy, tự do di chuyển. Khi tôi khoảng mười lăm tuổi, tôi mất những tự do ấy.
29/05/2012(Xem: 15855)
Đây là cuốn sách đầu tiên ghi lại lịch sử Phật Giáo ở Úc Châu và ảnh hưởng của Phật Giáo đối với đời sống văn hóa và tâm linh của người Úc... Thích Nguyên Tạng
16/04/2012(Xem: 5771)
Lá thư hàng tháng của Viện Đại Học Phật Giáo Âu Châu (tháng 4/2012) có đưa ra trong phần tin tức một bài tổng kết về sự hiện diện của Phật Giáo tại Phi Châu. Từ nhiều thế kỷ nay lục địa mênh mông và p
07/04/2012(Xem: 6490)
Trong cuối kỷ nguyên hai mươi đầu thế kỷ 21 đầy biến động chính trị trọng đại trên thế giới cũng như ở nhiều quốc gia, mà chúng tôi chỉ trình bày với mức tối thiểu về một khía cạnh Tôn giáo trong những năm tháng gần đây, nhất là đối với Phật Giáo Việt nam ở hải ngoại. Còn đề tài trên chắc chắn phải dành một chỗ rộng hơn, hay là có nhiều bậc thức giả mổ xẻ nhiều hơn trong những dịp có thể.
05/02/2012(Xem: 5704)
Trong khi, Tăng Ni và Phật tử khắp nơi trên thế giới thừa nhận Ấn Độ là đất nước khai sinh Phật pháp với sự giác ngộ của đức Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng và là nơi đức Phật đã truyền bá chánh pháp trong 45 năm; Trong khi, nhu cầu để bảo vệ, bảo tồn các Phật tích và thánh địa Phật giáo trên toàn cầu, đặc biệt những thánhtích gắn với cuộc đời của đức Phật như Lumbini ở Nepal, và Bồ Đề Đạo Tràng, Sarnath và Kushinagar ở Ấn Độ, cũng như các truyền thống văn hóa và tôn giáo của đạo Phật được giảng dạy, phát triển và thực hành qua nhiều thế kỷ;
15/01/2012(Xem: 7045)
Đa Văn Thiên Vươnglà một vị thần trong thần thoại của Ấn Độ cổ. Theo truyền thuyết, ngài là thầnDạ xoa có tên Kuvera hay Kubera. Ngoài ra, ngài cũng được gọi là Vaiśravanahoặc Vessavana, phiên âm Hán Việt là Tỳ Sa Môn. Còn xung quanh việc xuất thâncủa ngài, cho đến nay vẫn còn nhiều truyền thuyết khác nhau... Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
07/01/2012(Xem: 6510)
Trong sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội ngày nay, phật tử khắp nơi trên thế giới trở nên linh hoạt hơn trong việc bảo vệ lẫn truyền bá tư tưởng đạo Phật của họ. Với con số khoảng 500 triệu phật tử, đạo Phật được xem là tôn giáo lớn nhất thứ tư của hành tinh này. Đạo Phật có hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, trong đó gồm có môn Thiền quen thuộc cùng những bản kinh dịch khác nhau của người Tây Tạng...
07/01/2012(Xem: 9694)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567