Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Hai Mức Độ của sự Thực Hành

27/04/201106:53(Xem: 3222)
4. Hai Mức Độ của sự Thực Hành

NHỮNG YOGA TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ
Nguyên tác: The Tibetan Yogas of Dream and Sleep
Nhà Xuất Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998
Việt dịch: Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI:
NHỮNG LOẠI VÀ NHỮNG CÁCH SỬ DỤNG GIẤC MỘNG

4. Hai Mức Độ của sự Thực Hành

Một đêm cách đây vài năm, tôi mơ thấy một con rắn trong miệng tôi. Tôi phun nó ra và thấy rằng nó đã chết ; thật hoàn toàn khó chịu. Một xe cứu thương đến nhà tôi và những y tá nói với tôi đó là con rắn độc và tôi sắp chết. Tôi nói, được, và họ đem tôi đến bệnh viện.

Tôi sợ và nói với họ tôi cần thấy một bức tượng Tapihritsa, đạo sư Đại Toàn Thiện, trước khi tôi chết. Những y tá không biết ngài là ai, nhưng họ chấp nhận và nói tôi nên đợi chết, nó giải thoát cho tôi. Nhưng rồi họ làm tôi ngạc nhiên khi đem đến một bức tượng. Lý do trì hỗn cái chết của tôi không có tác dụng lâu. Thế rồi tôi nói với họ rằng không làm gì có cái chết; bây giờ đây là cái nạng chống của tôi. Và giây phút tôi nói điều đó, tôi thức dậy, tim đập nhanh.

Lúc đó là đêm trước Năm Mới và ngày hôm sau tôi phải bay đi Rome từ Houston. Cảm thấy không ổn sau giấc mộng, tôi nghĩ có lẽ tôi cần xem chuyện đó là nghiêm trọng và hỗn những chương trình du lịch của tôi. Tôi muốn có lời khuyên nhủ của thầy tôi, thế nên tôi đi ngủ lại và trong một giấc mộng sáng sủa tôi du lịch đến Lopon ở Népal và nói với ngài về giấc mơ quấy rối nọ.

Vào lúc đó, Houston đang bị lụt. Thầy tôi giải thích giấc mộng có nghĩa tôi tượng trưng cho Garuda, Kim Xí điểu, con chim huyền thoại có quyền lực với loài Naga (Rồng), những sinh linh giống con rắn ở dưới nước. Lopon nói rằng giấc mộng có nghĩa là chim Garuda đang chiến thắng những sinh linh dưới nước gây ra lụt lội. Sự giải thích này làm tôi cảm thấy tốt hơn ; ngày hôm sau tôi đi Rome như đã định. Đây là thí dụ dùng giấc mộng sáng sủa minh bạch cho một điều gì hiện thực, cho một quyết định.

Có lẽ tất cả điều này nghe có vẻ lạ lùng và khó tin, nhưng điểm thật sự là phát triển sự uyển chuyển mềm dẻo của tâm thức và phá thủng những biên giới trói buộc nó. Với sự uyển chuyển mềm dẻo hơn, chúng ta có thể chấp nhận tốt hơn cái gì sanh khởi mà không bị ảnh hưởng bởi những ước ao và tham muốn. Dù cho chúng ta còn bị giới hạn bởi nắm lấy và ghét bỏ, loại thực hành tâm linh này sẽ làm lợi lạc cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Nếu tôi thực sự sống trong sự chứng ngộ rằng không làm gì có cái chết và không có ai chết cả, bấy giờ tôi sẽ không tìm lời giải thích cho một giấc mộng như tôi đã làm trong trường hợp này, khi giấc mộng để lại cho tôi cảm giác lo âu. Sự tham muốn của chúng ta giải thích một giấc mộng đặt nền trên hy vọng và sợ hãi ; chúng ta muốn có cái hiểu để thay đổi cái gì đó. Khi bạn thấu hiểu, chứng ngộ bản tánh chân thật của bạn, bạn không tìm kiếm ý nghĩa, tìm kiếm để cho ai ? Vì bấy giờ bạn vượt khỏi hy vọng và sợ hãi, ý nghĩa của giấc mộng trở thành không quan trọng ; bạn chỉ đơn giản kinh nghiệm trọn vẹn bất cứ cái gì biểu lộ trong khoảnh khắc hiện tại. Bấy giờ không có giấc mộng nào có thể gây ra xao xuyến.

Yoga giấc mộng mở rộng trên toàn bộ cuộc đời chúng ta và áp dụng cho mọi chiều kích khác nhau của kinh nghiệm chúng ta. Nhưng cái này có thể dẫn đến một cảm thức xung đột giữa cái tri kiến triết lý cao nhất và một số giáo huấn. Một mặt, tri kiến là vô biên : những giáo lý áp dụng với cái bất nhị, với thực tại không quy ước, tuyên bố rằng không có gì để hoàn thành, rằng tìm kiếm là mất, rằng sự cố gắng đem người ta tách lìa khỏi bản tánh chân thật của chính mình. Nhưng cũng có những thực hành và giáo lý chúng chỉ có ý nghĩa trong khuôn khổ nhị nguyên, trong hy vọng và sợ hãi. Giáo huấn được ban cho về giải thích những giấc mộng, về làm an bình những hộ pháp địa phương, về những thực hành kéo dài tuổi thọ, và người học trò được yêu cầu thực hành với tinh tấn và giữ gìn sự tập chú của tâm thức. Có vẻ như chúng ta đang nghe nói về cả hai, rằng không có gì để thành tựu và rằng chúng ta cần làm việc rất khó nhọc.

Đôi khi sự lầm lẫn về điểm này dẫn một hành giả vào một lầm lẫn về thực hành. Câu hỏi khởi lên : “Nếu thực tại tối hậu là trống không những phân biệt, và nếu giải thoát được tìm thấy trong sự chứng ngộ bản tánh trống không này, thì bấy giờ tại sao tôi lại phải làm những thực hành nhắm vào những kết quả tương đối ?” Câu trả lời thì rất đơn giản. Bởi vì chúng ta đang sống trong một thế giới nhị nguyên, tương đối, nên chúng ta phải làm những thực hành có hiệu quả trong thế giới này. Trong hiện hữu sanh tử, những phân hai và những đối cực có ý nghĩa ; có đúng và sai, những cách tốt hơn và xấu hơn để hành động và suy nghĩ, đặt nền trên những giá trị của những tôn giáo, trường phái tâm linh, hệ thống triết lý, khoa học và văn hóa khác nhau. Hãy tôn trọng những hoàn cảnh mà bạn bị vướng mắc trong đó. Khi sống trong sanh tử, những thực hành quy ước được áp dụng và sự giải thích giấc mộng có thể rất hữu ích.

Tôi cần sự giải thích giấc mộng bởi vì tôi còn sợ chết. Nhưng điều quan trọng với tôi là biết rằng nhu cầu của tôi đặt nền trên sợ hãi, trên nhị nguyên, và khi tôi ở trong sự hiện diện bất nhị thì không có sợ hãi và không cần giải thích. Chúng ta sử dụng cái gì ích lợi cho hoàn cảnh trong đó chúng ta đang sống. Khi chúng ta thuần chỉ sống trong bản tánh của tâm thức, trạng thái trong đó thực tại thì thực sự không có một phân biệt, chia cách nào, bấy giờ chúng ta không cần làm những thực hành tương đối. Bấy giờ không cần giải thích giấc mộng bởi vì không cần hướng dẫn trở lại cho chính chúng ta, không có một cái ngã ích kỷ nào để hướng dẫn trở lại. Chúng ta không cần tham vấn một giấc mộng về tương lai, bởi vì không còn hy vọng hay sợ hãi. Chúng ta hoàn toàn hiện diện trong bất cứ cái gì khởi lên, không bỏ cũng không nắm. Chúng ta chẳng cần tìm kiếm ý nghĩa của giấc mộng, bởi vì chúng ta đang sống trong chân lý, trong sự thật.

Trong đời sống quy ước của chúng ta, chúng ta có những chọn lựa và có thể thay đổi những sự việc ; đó là tại sao chúng ta nghiên cứu những giáo lý, tại sao chúng ta thực hành. Khi chúng ta hiểu hơn và khéo léo thiện xảo hơn trong cuộc đời chúng ta, chúng ta trở nên uyển chuyển linh hoạt hơn. Chúng ta bắt đầu thực sự hiểu những việc mà chúng ta được dạy : sáng sủa minh bạch là gì, những kinh nghiệm của chúng ta như huyễn mộng ra sao, như thế nào khổ đau xảy tới, bản tánh chân thật của chúng ta là gì. Một khi chúng ta bắt đầu thấy cái chúng ta đang làm là một nguyên nhân cho khổ đau thêm nữa như thế nào, chúng ta có thể chọn lựa làm cái gì khác. Chúng ta càng sống càng mệt lữ bởi những bản sắc, nhân cách bó hẹp và những khuynh hướng lập đi lập lại chúng đưa chúng ta đến nhiều hơn nữa sự khổ đau không cần thiết. Chúng ta buông bỏ những trạng thái xúc tình tiêu cực, tự huấn luyện để hàng phục sự xao lãng phóng dật, và an trụ trong hiện diện thanh tịnh thuần khiết.

Cũng như thế với việc mộng. Có một sự tiến bộ trong thực hành. Khi thực hành được phát triển, sẽ khám phá rằng có cách khác để mộng. Bấy giờ chúng ta tiến về những thực hành giấc mộng không quy ước trong đó câu chuyện và những giải thích của nó không quan trọng nữa. Chúng ta làm việc trên những nguyên nhân của những giấc mộng hơn là bản thân những giấc mộng.

Không có lý do gì không dùng yoga giấc mộng để đạt được những mục tiêu thế gian. Một số những thực hành nhằm đến những quan tâm tương đối và dẫn đến sự sử dụng giấc mộng cho những mục tiêu như sức khỏe, dự đoán, hướng dẫn, tẩy sạch những khuynh hướng nghiệp không lành mạnh, chữa bệnh và vân vân. Con đường là thực dụng và thích hợp cho tất cả. Nhưng khi sử dụng yoga giấc mộng để làm lợi ích cho chúng ta trong thế giới tương đối là tốt, thì đó chỉ là một sự sử dụng tạm thời. Một cách rốt ráo, chúng ta muốn dùng giấc mộng để giải thoát chúng ta khỏi tất cả những điều kiện tương đối, chứ không chỉ cải thiện chúng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2011(Xem: 3162)
BAMIYAN, Afghanistan — Những hốc đá có thời chứa các tượng Phật Bamiyan khổng lồ giờ trống trãi trên mặt núi đá – một tiếng khóc thầm cho sự tàn phá dã man đối với thung lũng huyền thoại này và những quí vật một ngàn năm trăm năm tuổi, những tượng Phật đứng vĩ đại nhất một thời của thế giới.
30/12/2010(Xem: 3425)
Tứ Thư và Ngũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
25/12/2010(Xem: 7998)
Phật giáo là một tôn giáo được đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TCN. Do đạo Phật được truyền đi trong một hơn hay 2500 năm và lan ra nhiều nơi cho nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của nó khá đa dạng về các bộ phái cũng như là các nghi thức và phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, đức Thích Ca, người truyền đạo Phật, đã thiết lập được một giáo hội với các luật lệ hoạt động chặt chẽ của nó. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với các hoàn cảnh chế độ xã hội, con người, và tập tục ở các thời kỳ khác nhau, nên ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
24/12/2010(Xem: 5416)
Nếu ta dở bản đồ thế giới, ta sẽ thấy Á Châu chiếm một vùng đất mênh mông hình mặt trăng lưỡi liềm, hai đầu chỉa về hướng bắc, vòng trong đi theo duyên hải Biển Bắc Cực của xứ Scandinavia và Tây Bá Lợi Á. Vòng ngoài từ đông sang tây là bờ biển Thái Bình Dương Tây Bá Lợi Á qua Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, bán đảo lục địa Ấn Độ, Iran, Tiểu Tế Á đến Âu Châu. Giáp ranh vòng ngoài của mặt trăng lưỡi liềm ấy, tại nhiều nơi, nhưng đứng ngoài, ta thấy các nước Ả Rập, Phi Châu và Mỹ Châu.
15/12/2010(Xem: 5431)
Có những người tuy không hiểu biết nhiều về Phật Giáo nhưng lại có phần nào quen thuộc với giáo lý bất bạo động và từ bi của đao Phật, những người này thường hay lầm tưởng rằng giới Phật tử đều ăn chay. Họ có phần nào ngạc nhiên pha chút thất vọng khi khám phá ra rằng rất đông Phật tử ở cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn thường ăn thịt (ăn mặn), cho dù không nhất thiết là tất cả Phật tử ai ai cũng ăn thịt như vậy.
03/12/2010(Xem: 3612)
Mùa Thu năm 334 trước Tây Lịch (TTL), vua A-Lịch-Sơn Đại-Đế (Alexander the Great) của nước Hy-Lạp bắt đầu cuộc chinh phạt Đông tiến. Nhà vua thấy nhà hiền triết Aristotle – cũng là ông thầy dậy học mình – nói về Ấn-Độ như là một dải đất mênh mông xa tít mù tắp tận chân trời, nên cảm thấy hứng thú phải đi chiếm lấy và để đem nền văn minh Hy-Lạp reo rắc cho các dân bản xứ.
28/11/2010(Xem: 4655)
Ngày nay, các nhà nghiên cứu lịch sử võ học đều thừa nhận, Thiếu Lâm không những là cội nguồn của nhiều môn võ khác, mà còn được tôn xưng là Ngôi Sao Bắc Đẩu trong nền võ học.
23/10/2010(Xem: 12137)
Đại Diễn giải về Mật thừa của Tsongkapa (1357-1419), nhà sáng lập phái Gelukpa của Phật giáo Tây Tạng, trình bày những đặc trưng chính của tất cả những hệ thống của tantra Phật giáo cũng như sự khác biệt giữa Kinh và Tantra, hai bộ phận của lời Phật dạy.
22/10/2010(Xem: 6281)
Khi tìm những bài nói về về tương lai Phật giáo hoặc Phật giáo và tuổi trẻ, tôi lấy làm ngạc nhiên vì không dễ kiếmđược nhiều bài nói về đề tài phức tạp này để cốnghiến cho đọc giả của đặc san. Có lẽ do vì thống kê sinhhoạt Phật pháp không được đầy đủ và nền sinh hoạttại các chùa không mấy liên quan với nhau.
20/10/2010(Xem: 5114)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567