Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trí Huệ và Đại Bi: Y khoa của đức Phật

19/01/201105:56(Xem: 11971)
Trí Huệ và Đại Bi: Y khoa của đức Phật

TRÍHUỆVÀ ĐẠI BI

TenzinGyatso Dalai Lama thứ 14
Nguyêntác:Kindness, Clarity and Insight, Snow Lion Publications Ithaca NewYork USA 1990
BảndịchViệt: Thiện Tri Thức 2000 PL. 2543

TRÍHUỆ VÀ ĐẠI BI :
YKHOA CỦA ĐỨC PHẬT
*

Buddhamsharanamgacchami
Dharmansharanamgacchami
Sanghamsharanamgacchami

“Tôiđitìm Phật, Pháp, Tăng”. Âm nhạc khác với Tây Tạng, nhưngý nghĩa thì đồng, và chứng tỏ rằng tất cả chúng ta làđệ tử của cùng một đạo sư là đức Phật. Có niềm tinvào những gì Phật thuyết không khiến tôi nói rằng Phậtgiáo là con đường tốt nhất cho mọi người. Tất cả mọingười không có cùng một thị hiếu, mỗi người có nhữngsở thích của họ và phải được cảm thấy tự do để chọnlựa giữa những tôn giáo khác nhau cái nào thích hợp vớimình. Người ta có thể nhờ vào những phương thuốc khácnhau để chữa lành bệnh tật. Một vài thứ thuốc có thểcho những kết quả tốt trong một trường hợp và tỏ ra vôhiệu trong một trường hợp khác. Sẽ là hơi đơn giản khinói rằng Phật giáo là phương thuốc trị muôn bệnh, nhưngthật sự là truyền thống này chứa đựng những giáo lýrộng rãi và sâu xa. Có những người nghĩ rằng đó khôngphải là một tôn giáo, mà một khoa học về tâm thức ; vớinhững người khác, Phật giáo là vô thần. Thật vậy, nólà một tiếp cận hợp lý, sâu xa, phức tạp về cuộc sốngcon người, nó nhấn mạnh vào trách nhiệm cá nhân của sựphát triển bên trong hơn là vào ảnh hưởng của các hoàncảnh bên ngoài. Đức Phật đã nói : “Chính các con là vịthầy của mình, chính nơi con mà mọi sự tùy thuộc vào. Vớitư cách là thầy dạy, với danh hiệu là y sĩ, ta có thể đềra cho các con phương thuốc hiệu quả, nhưng chính các con phảidùng nó và tự chăm sóc mình.”

ĐứcPhật là ai ? Đó là một người đã đạt đến sự tịnhhóa hoàn toàn tâm thức, lời nói và thân thể. Theo một sốbản văn, tâm của Phật, Pháp thân hay thân của chân lý, cóthể được xem như chính đức Phật. Lời nói của ngài haynăng lực nội tại như là Pháp, giáo lý. Và thân thể ngàinhư là Tăng, cộng đồng tâm linh. Và toàn thể tạo thànhba viên ngọc quý : Phật, Pháp và Tăng.

Mộtvị Phật như vậy có hay không một nguyên nhân ? Có, vị ấycó một nguyên nhân. Vị ấy có thường hằng không ? ThíchCa Mâu Ni, đức Phật đã cá thể hóa, ngài có vĩnh cửu không? Không. Ban đầu, Phật Thích Ca chỉ là Tất Đạt Đa, mộtngười bình thường trong vòng những tư tưởng và hành độngtiêu cực – hoàn toàn như chúng ta. Tuy nhiên, nhờ những giáolý và những vị thầy, ngài đã thanh tịnh dần dần, và cuốicùng trở thành giác ngộ.

Khitheo cùng một tiến trình nhân quả, tất cả chúng ta cũngcó thể thành công như thế. Tâm thức có nhiều chiều kíchmà mức độ vi tế nhất là bản tánh của Phật, hạt giốngPhật tánh. Tất cả chúng sanh mang trong nó tâm thức vi tếnày mà sự thực hành thiền định sâu xa và những hành viđức hạnh chuyển hóa dần dần thành Phật tánh thanh tịnh.Hoàn cảnh chúng ta đầy hy vọng ; mầm mống giải thoát ởtrong chúng ta.

Lànhững đệ tử tốt của đức Phật, chính yếu là thực hànhlòng bi mẫn và ngay thẳng. Khi người ta cố gắng có lòngtốt với những người khác, người ta trở nên ít ích kỷvà sự chia xẻ với những đau khổ của họ khiến ta càngngày càng chú tâm tới hạnh phúc của mỗi người. Đó chínhlà nền tảng của giáo lý. Để chạm đến mục đích giáolý đề nghị với chúng ta, chúng ta phải thực hành thiềnđịnh sâu xa và trau dồi trí huệ. Khi người ta lớn lên trongtrí huệ, cảm giác đạo đức cũng tự nhiên phát triển.
ĐứcPhậtđã nhấn mạnh nhiều về một sự quân bình chân chínhgiữa thông tuệ và mẫn cảm – trí huệ và đại bi. Mộttrí óc tốt và một con tim tốt phải đi song đôi. Khi sựphát triển thông tuệ làm hao tổn trái tim, đó là một nguồngốc của các vấn đề, và khổ đau tăng thêm trong thế giới.Khi người ta ưu đãi trái tim hơn trí óc, biên giới phân cáchchúng ta và những bản năng loài vật bị mờ nhạt. Nhưngnếu người ta cho phép cả hai dòng chảy tuôn một cách hàihòa, người ta có được cùng lúc sự tiến bộ vật chấtvà sự nở rộ tâm linh. Mong rằng trái tim và trí óc hòa điệuvới nhau và chúng ta thực sự biết được bình an và tìnhbạn giữa gia đình và nhân loại.

Câuhỏi : Chữ dharma có nghĩa là gì ?

Trảlời : Dharma (pháp) là một tiếng Phạn. Nó nghĩa là “nắmgiữ”. Trong một nghĩa rất rộng, nó áp dụng cho mọi hiệntượng mà mỗi hiện tượng “duy trì” thực thể riêng củanó. Nhưng, trong văn mạch của dharma và của những tương quancủa nó với thế giới, từ này chỉ sự thực hành nó “duytrì, nâng đỡ” cá nhân, bảo vệ người đó khỏi sợ hãivì sợ hãi nằm trong dòng tư tưởng của y. Sự nâng đỡhay bảo vệ này, tác động trên những kết quả cũng nhưnhững nguyên nhân của khổ đau, nghĩa là vừa trên khổ đauvừa trên tham ái. Những phương tiện mà người ta dùng đểđạt đến sự kiểm soát của tâm thức và cho phép chúngta đạt được điều ấy là Dharma (Pháp). Nhất thời, nóđem những sợ hãi khỏi chúng ta, và về lâu về dài, nó canthiệp trong những tình huống đáng sợ và bi thảm, khi ấynhững tham ái độc hại lôi kéo chúng ta khi chúng ta nhườngbước cho ảnh hưởng của chúng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5563)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 5101)
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”. Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.
10/04/2013(Xem: 5685)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
10/04/2013(Xem: 5014)
Theo tin đài VOA, ngày 8/1/2002, đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tại tỉnh Sanarth, Bắc Ấn, ngày nào mà Tây Tạng còn chưa được giải phóng, Ngài sẽ tái sinh vào những nơi đất nước tự do.
10/04/2013(Xem: 4546)
Các con số thống kê chính thức của viện Thống Kê Úc Đại Lợi cho thấy rằng trong 5 năm vừa qua, những người dân Úc Đại Lợi không tin vào Thượng Đế (vô tôn giáo) đã giảm đi. Điều không thể chối cãi là các tín đồ Ki-Tô tiếp tục giảm sút nhiều hơn đối với đạo Anh Cát Giáo và đạo Nhà Thờ Hợp Nhất (Uniting Church), còn đạo Thiên Chúa La Mã bị giảm tượng đối ít hơn. Trong khi đó số người tự coi là vô thần giảm đi hơn là con số của năm năm về truớc. Vào năm 2001 chỉ có hơn 15% dân số bị xếp loại vô tôn giáo, so với 16.5% vào năm 1996. Các tôn giáo có tín đồ gia tăng là đạo Hồi và đạo Ấn, vì lý do di dân.
10/04/2013(Xem: 5079)
Kênh truyền hình Địa Dư Quốc Gia (National Geographic Channel) đã cho trình chiếu trong tháng 5/2002 vừa qua một loạt phóng sự (Mummy Road Show) về các xác ướp cận đại còn giữ gìn đuợc tốt. Chương trình nghiên cứu này do hai chuyên gia về xác ướp là ông Jerry Conlogue và Ron Beckett thực hiện.
10/04/2013(Xem: 4992)
Tin 1 triệu người thuộc giai cấp cùng đinh của Ấn Độ từ bỏ Ấn giáo, quy y Tam Bảo tại viện Ambedkar, thủ đô Delhi Ấn Độ, đã tạo ra cơn sửng sốt cho các đảng lãnh đạo Ấn giáo của chính phủ Ấn Độ và gây chấn động khắp thế giới. Thanh Tâm đã phỏng vấn đại đức Thích Nhật Từ, tu sĩ Việt Nam duy nhất tham dự đại lễ quy y này.
10/04/2013(Xem: 5402)
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka không những đối với dân-tộc A?, mà còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử A? độ đương thời.
10/04/2013(Xem: 4963)
Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam") và 2).
10/04/2013(Xem: 4853)
Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn "đại cách mạng văn hóa", Phật giáo đứng mũi chịu sào, tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa. Cho đến vào khoảng thập niên 70, nhà nước thực hành cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự viện lần lượt khôi phục sinh hoạt tôn giáo, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo lại quá hiếm hoi, không đủ người kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, làm sao có thể thay đổi được vận mệnh của Phật giáo ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]