Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản tánh sáng ngời của tâm thức

19/01/201105:47(Xem: 11084)
Bản tánh sáng ngời của tâm thức

TRÍHUỆVÀ ĐẠI BI

TenzinGyatso Dalai Lama thứ 14
Nguyêntác:Kindness, Clarity and Insight, Snow Lion Publications Ithaca NewYork USA 1990
BảndịchViệt: Thiện Tri Thức 2000 PL. 2543

BẢNTÁNH SÁNG NGỜI
CỦATÂM THỨC*

Thậtlàmột ích lợi lớn khi có thể đối diện với cuộc sốngbằng một tâm thức tích cực và khá quân bình. Chúng ta hoàntoàn có lợi khi quen với một tâm thái đúng đắn, nhưng thóiquen nhường bước cho những xúc động xung đột như giậndữ dựng lên những chướng ngại có tầm cỡ. Tuy nhiên, cóthể vượt khỏi chúng. Chúng ta đạt đến đó bằng cáchchánh niệm nhận ra mỗi một phiền não này ngay khi chúng biểulộ và chữa lành nó tức thì. Khi người ta nắm lấy mọicơ hội để thực tập như vậy, những phiền não thôi ngựtrị chúng ta trong vòng vài năm. Về lâu về dài, ngay ngườidễ nổi giận nhất cũng đạt được sự gìn giữ tính bìnhthản.

Vàingười tỏ ra dè dặt : nếu tâm thức không tự do để đirông đây đó, chẳng phải người ta đã mất đi sự tự domà người ta đã có khi tự điều phục sao ? Không. Sự việckhông xảy ra như vậy. Nếu tâm thức bạn quân bình một cáchđúng đắn, bạn tự do ngay lúc này, và nếu nó cư xử sai,bạn bắt buộc phải thuần phục nó.

Nhữngngười khác tự hỏi : người ta có thể hoàn toàn chấm dứtnhững phiền não hay chỉ có thể đè nén chúng ?

Đốivới Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộtừ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làmô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ làngoại sanh. Chúng can thiệp một cách có chừng mực và nhưvậy có thể tách khỏi tâm thức. Nhưng bản tánh tối hậunội tại ở tâm thức chính là tánh Không của nó.

Nếunhững tình cảm như ghét thuộc về bản tánh của nó, tâmthức bắt buộc phải ghét một cách tiên thiên. Rõ ràng khôngphải là như vậy. Chúng ta chỉ hình thành giận dữ trong mộtvài trường hợp, ngoài ra nó không hiện hữu. Sự thù ghétvà tâm thức quả thật là hai thứ khác biệt – dù cho ởtrong nền tảng, cái này và cái kia đều là bản tánh sángtỏ và thông hiểu bởi vì chúng đều thuộc về nguồn cộicủa tâm.

Thậtra, sự thù ghét căn cứ trên cái gì ? Trên những quá khích,phóng đại làm méo mó thực tại : chúng ta phải phủ lênnhững hiện tượng một lớp vẹc ni làm cho chúng ta thấychúng xấu hay đáng ghét. Từ đó, chúng ta hình thành cơn giậnđối với tất cả thứ gì dựng lên giữa chúng ta và hammuốn của chúng ta. Vậy thì tâm thức không có lý do gì đểnâng đỡ cho sự thù ghét đó. Trái lại, rất đỗi hợp lýđể mà thương yêu. Khi ác ý chống đối lại thiện tâm,cái này thế nào rồi cũng lôi cuốn nó theo mình.

Nếuchúng ta kiên trì trong một cách cư xử đúng đắn, nghiêmnhặt, với thời gian những phản ứng tai hại và vô căn cứsẽ càng ngày càng hiếm. Những thái độ đúng đắn, đặtnền trên cái chân thực sẽ đến với chúng ta một cách tựnhiên. Khi các bạn tập nhảy xa, thành tích của các bạn tùythuộc vào thân thể các bạn. Nó tuân theo những bó buộccủa vật chất ; vật chất đặt ra những hạn chế cho sựmềm dẻo của thân. Tâm thức, tự nó, chỉ là sự sáng sủavà hiểu biết. Nó không chỉ không biết đến những giớihạn thuộc loại này, mà với một sự tập luyện dần dà,mọi phẩm tính quy định sự quân bình của nó chỉ có cáchlà nở bừng nơi tâm thức.

Aicũng biết khả năng bao la của mình trong việc ghi nhớ, sốthông tin khó tin nổi mà họ có khả năng cất chứa trong mộttiến trình có phương pháp. Bây giờ, bạn chỉ nhớ giữ đượcít bởi vì bạn chỉ dùng những mức độ sơ khai nhất củatâm thức. Nhưng khi bạn biết tìm kiếm chiều kích vi tếnhất của nó, các bạn sẽ nhớ được rất nhiều.

Nhữngyếu tố quân bình có một tiềm năng phát triển vô tận.Chỉ cần chúng ta biết rút ra sự lợi lạc. Chúng ta càngđặt mình vào phía những thái độ tốt lành, chúng là nhữngđối trọng chống lại sự độc hại của những phiền não,thì những cái này càng ít có thể làm hại chúng ta. Và nếuchúng ta kiên trì, chúng sẽ hoàn toàn thôi tác hại đến chúngta.

Thếnên, phải nói rằng : tâm thức của chúng ta chỉ là quangminh và hiểu biết, với nó tất cả chúng ta đều có chấtthể căn bản quyết định cho sự đạt được Phật tánh.

Tưtưởng Phật giáo đặt nền trên yếu tố này, nó bày tỏkhả năng toàn giác tiềm ẩn trong tâm thức, khả năng đóđược tỏ rõ bởi bản tánh quang minh và hiểu biết củatâm thức. Luận đề này cho phép đề xướng rằng nhữngthái độ hài hòa có thể nhân lên đến vô tận.

Vậythì cực kỳ quan trọng nên chăm chú hàng ngày vào sự tìmkiếm bản chất quy ước của tâm thức, để học cách nhậnra nó và tập trung vào nó.

Cácbạn chớ chán nản vì khó khăn. Những tư tưởng đến nhưhơi nước làm mờ sự trong sáng tự nhiên của gương tâmvà tấm màn tạo bằng những tư tưởng ấy ngăn cản cácbạn nhận ra nó.

Đểbắt đầu, chớ bằng lòng đi theo trí nhớ trong những hồiức của nó. Chớ phóng mình theo những chuyện tương lai. Hãyđể cho tâm thức trôi chảy trong sắc độ riêng của nó,không khoác vào ý niệm. Hãy quan sát nó trong trạng thái yênnghỉ, trần truồng, trinh bạch với mọi tư tưởng.

Nếucác bạn còn chưa quen với sự thực hành này, ban đầu hìnhnhư với các bạn có đôi chút khó khăn ; nhưng đến mộtlúc tâm thức được nhìn thấy như nước trong trẻo. Hãyở như thế. Quan sát dòng tư tưởng không có hình thể nàymà không tưởng tượng gì cả.

Sựthiền định này được yêu cầu làm vào sáng sớm, khi tâmthức tỉnh thức và trong sáng. Lúc này là tốt nhất vì cácgiác quan chưa hoàn toàn hoạt động. Nếu bạn ăn ít vào tốihôm trước và không ngủ quá nhiều, tâm thức sẽ thanh nhẹvà sắc bén hơn vào lúc thức giấc. Dần dần, nó sẽ cóđược sự an định vững vàng, sự chú ý và trí nhớ sángtỏ và chính xác.

Sựthực hành này có thể làm cho các tri giác của bạn thêm sắcbén. Hãy tỉnh giác trong sự thực hành đó suốt cả ngày.Trong thời gian không lâu, các bạn sẽ nhận thấy những tưtưởng thanh thản và êm ả hơn. Khả năng trí nhớ của cácbạn khi mở rộng sẽ kích thích khả năng thấu thị phátsanh từ một sự chú tâm rất tinh tế. Về lâu dài, tâm thứccác bạn sẽ có một sự sắc bén và sống động khiến nótỏ ra có hiệu quả trong vài lãnh vực nào đó.

Nếucác bạn chỉ làm một thời thiền định ngắn trong mỗi ngày,tâm thức các bạn sẽ mất thói quen phân tán. Nó sẽ trầmmình trong sự quan sát chỉ một đối tượng. Các bạn sẽphong phú đáng kể nhờ đó.

Trítưởng tượng làm các bạn xoay vòng vô tận, mong ước điềuthích, chối bỏ điều không thích, và tất cả những thứtheo đó cuối cùng sẽ có thể êm dịu trở lại. Một khoảnglặng nhỏ trong cái vô niệm, đó là một chút an nghỉ. Đấyđã là những khoảng trống vắng để nghỉ ngơi…


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5441)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 4995)
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”. Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.
10/04/2013(Xem: 5627)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
10/04/2013(Xem: 4968)
Theo tin đài VOA, ngày 8/1/2002, đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tại tỉnh Sanarth, Bắc Ấn, ngày nào mà Tây Tạng còn chưa được giải phóng, Ngài sẽ tái sinh vào những nơi đất nước tự do.
10/04/2013(Xem: 4478)
Các con số thống kê chính thức của viện Thống Kê Úc Đại Lợi cho thấy rằng trong 5 năm vừa qua, những người dân Úc Đại Lợi không tin vào Thượng Đế (vô tôn giáo) đã giảm đi. Điều không thể chối cãi là các tín đồ Ki-Tô tiếp tục giảm sút nhiều hơn đối với đạo Anh Cát Giáo và đạo Nhà Thờ Hợp Nhất (Uniting Church), còn đạo Thiên Chúa La Mã bị giảm tượng đối ít hơn. Trong khi đó số người tự coi là vô thần giảm đi hơn là con số của năm năm về truớc. Vào năm 2001 chỉ có hơn 15% dân số bị xếp loại vô tôn giáo, so với 16.5% vào năm 1996. Các tôn giáo có tín đồ gia tăng là đạo Hồi và đạo Ấn, vì lý do di dân.
10/04/2013(Xem: 4978)
Kênh truyền hình Địa Dư Quốc Gia (National Geographic Channel) đã cho trình chiếu trong tháng 5/2002 vừa qua một loạt phóng sự (Mummy Road Show) về các xác ướp cận đại còn giữ gìn đuợc tốt. Chương trình nghiên cứu này do hai chuyên gia về xác ướp là ông Jerry Conlogue và Ron Beckett thực hiện.
10/04/2013(Xem: 4937)
Tin 1 triệu người thuộc giai cấp cùng đinh của Ấn Độ từ bỏ Ấn giáo, quy y Tam Bảo tại viện Ambedkar, thủ đô Delhi Ấn Độ, đã tạo ra cơn sửng sốt cho các đảng lãnh đạo Ấn giáo của chính phủ Ấn Độ và gây chấn động khắp thế giới. Thanh Tâm đã phỏng vấn đại đức Thích Nhật Từ, tu sĩ Việt Nam duy nhất tham dự đại lễ quy y này.
10/04/2013(Xem: 5345)
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka không những đối với dân-tộc A?, mà còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử A? độ đương thời.
10/04/2013(Xem: 4919)
Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam") và 2).
10/04/2013(Xem: 4753)
Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn "đại cách mạng văn hóa", Phật giáo đứng mũi chịu sào, tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa. Cho đến vào khoảng thập niên 70, nhà nước thực hành cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự viện lần lượt khôi phục sinh hoạt tôn giáo, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo lại quá hiếm hoi, không đủ người kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, làm sao có thể thay đổi được vận mệnh của Phật giáo ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]