Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Cuộc Du hành của Mila do một Giấc Mộng Gợi Ý

09/01/201106:27(Xem: 4888)
17. Cuộc Du hành của Mila do một Giấc Mộng Gợi Ý

17

Cuộc Du hành của Mila do một
Giấc Mộng Gợi Ý


Sau khi giáo hóa cho người dân Lowo và những người chăn cừu mùa thu năm đó, chúa tể vĩ đại của các thiền giả quyết định đi về hướng đồng bằng Kuthang. Ngài nói với Seben và các repa khác, “Các ông đi đến vùng dưới và khất thực một vòng. Khi mùa đông đến, hãy tiếp tục thực hành ở Động Răng Ngựa Núi Trắng. Ta đi đến đồng bằng Kuthang theo sự gợi ý của một giấc mộng đêm rồi.”

Họ xin ngài, “Xin đem chúng con theo.”

Ngài trả lời, “Nếu tất cả chúng ta đều đi, sẽ không có lương thực cho mùa đông. Các con hãy đến Núi Trắng – sự thực hành của các con sẽ phát triển ở đó.” Và để khuyên bảo họ, ngài hát bài ca này :

Con cầu nguyện dưới chân lama của con.

Seben thành tín, tôn kính và rất sùng mộ,
Tâm cởi mở, định hướng đúng, hòa hợp với tất cả,
Dũng mãnh và chuyên cần trong thực hành –
Dù con là một repa trẻ
Con là một đứa con đáng yêu ta nuôi nấng.

Con là một đứa con quý báu thân thiết với lòng ta,
Một đứa con giàu có, thừa tự những lời dạy của ta,
Một đứa con có thể mang gánh nặng,
Một đứa con may mắn với một chỗ an toàn trên con đường.
Giờ hãy nghe, kẻ thành tín :

Chúng ta sanh ra một mình ;
Chúng ta sẽ chết một mình – tự chúng ta –
Có ai có thần lực để ở lại mãi mãi ?
Bây giờ khi chúng ta có dịp may,
Mỗi chúng ta hãy tự mình thực hành.

Chúng ta sẽ thấy ai có chứng ngộ lớn hơn,
Ai có kiên nhẫn và trí huệ hơn,
Ai là tốt hơn trong thực hành Pháp.
Tất cả các con, những repa trẻ
Hãy thực hành như Seben chỉ dẫn.
Hãy ngồi nghiêm ngặt trên bồ đoàn của mình.

Rồi họ đi xuống đồng bằng Gungthang trong khi Mila hướng về Kuthang. Sau khi ngang qua Thang và Khum,(41) ngài gặp một thí chủ. Mila hỏi ông, “Ông có thể cho thiền giả này thức ăn chăng ?”

Ông trả lời, “Nhà tôi ở dưới miền thấp. Tôi có ở đây vì công việc. Ngài đến từ đâu, hỡi thiền giả ? Ngài trông không giống như những vị hành giả khác. Sao thế ?”

Mila hát bài ca này để trả lời :

Kính lễ các lama thiêng liêng.

Thí chủ hỏi, hãy nghe :
Tôi là Milarepa
Tôi là một hành khất khổ hạnh,
Một thiền giả lão luyện, kẻ tìm đồ bố thí,
Người chấp nhận những gì đến trên con đường của tôi.

Hãy nghe đây, tôi sẽ giải thích tại sao
Những đường lối của tôi khác với những người khác :

Những người khác chăm lo công việc của đời này ;
Tôi quan tâm đến những đời tương lai của tôi.

Những người khác tìm kiếm một người khác phái vừa lòng ;
Tôi chỉ bị quấy rối bởi một người vợ.

Những người khác tìm kiếm chỗ đứng trong đời này ;
Tôi luôn luôn ở một vị trí tầm thường.

Những người khác trang hoàng mình bằng áo quần, đồ trang sức ;
Tôi mặc một áo rách, không có gì đẹp quý.

Những người khác cố gắng làm cho thân họ hấp dẫn ;
Tôi chỉ hành động thoải mái và tự nhiên.

Những người khác tìm kiếm đồ ăn thức uống ngon ;
Tôi tìm thực phẩm của tôi như một con chim.(42)

Ông hiểu điều này không, hỡi người thắc mắc ?

Thí chủ kêu lên, “Ngài là Mila thiền giả ! Tôi không đã nhận biết ngài !” Ông bày tỏ sự tôn kính và xin ban phước, và rồi nói, “Tên tôi là Gureb Darma Gyel. Sao ngài không đến chỗ tôi ?”

Mila không đến đó, mà đi Naphu. Thí chủ cung cấp cho ngài lương thực cho ba tháng, đáp lại Mila dạy Pháp cho ông rất nhiều. Một hôm Mila nói với ông, “Bây giờ, tôi sắp đến một chỗ vắng vẻ”, và không nghe lời năn nỉ của thí chủ, ngài ra đi. Đến một khúc đèo, ngài gặp một người du mục và hỏi, “Theo hướng này có một hang động nào tốt không ?”

Anh ta trả lời, “Qua đèo này, trên sườn phía bắc của núi, có một hang động gọi là Pong Lung.”

Quyết định đến đó, Mila đi qua một hẻm núi và gặp một thiếu nữ đang trông coi dê và cừu. Khi đến gần, cô nói :

Tôi đang thấy loại người nào đây ?
Tôi thấy một nhà khổ hạnh trần truồng.
Tôi thấy một người không biết hổ thẹn.
Tôi thấy một người không bị đói lạnh ảnh hưởng.
Chớ dừng nơi đây – hãy đi đến Núi Xám –
Chắc chắn ông sẽ thành tựu mục đích của mình.

Nói xong cô và cả đàn cừu biến mất như một mống cầu vồng. Mila đến ở lại tại Pháp Đài Kim Cương Núi Xám. Ở đó ngài dùng hết thức ăn để thiền định, mặc áo choàng dùng cho khổ hạnh, và ngồi dưới vòm của hang như một người đội mũ. Năng lực tâm thức và sự sáng tỏ trong trẻo của ngài khai triển mạnh mẽ, và ngài hát bài ca này :

Kính lễ dưới chân của lama cha tôi.

Tôi, thiền giả Milarepa,
Xin dâng bài ca này trong trạng thái tự nhiên,
Nhảy múa và hát ca trong cõi giới đại lạc.
Hãy nghe đây mẹ và chư dakini.

Sự không sợ hãi nóng và lạnh này
Niềm tin bình thường không thể nào sánh.

Khả năng nhất tâm trong cô quạnh này.
Sự tập trung bình thường không thể ngang bằng.

Cái bình thản không có những phóng chiếu thành đối tượng này
Bất cứ cái thấy bình thường nào cũng không thể nào sánh.

Hậu chứng đắc không thể diễn tả này
Thiền định bình thường không thể ngang bằng.

Tỉnh giác thông suốt này
Sự thực hành bình thường không thể nào sánh.

Sự hợp nhất của tánh Không và lòng bi này
Những thành tựu bình thường không thể ngang bằng.

Áo choàng giải thoát khỏi lạnh này
Những áo dài bình thường không thể nào sánh.

Sự tập trung thoát khỏi đói này
Thịt và bia bình thường không thể sánh bì.

Ngụm này nơi suối nguồn của giác ngộ
Thức uống bình thường không thể sánh bì.

Sự thỏa mãn sanh từ bên trong này
Kho tàng bình thường không thể ngang bằng.

Dịch giả Marpa Lotsawa
Những thành tựu giả bình thường không thể ngang bằng.

Cái thấy tự tâm như là khuôn mặt của bổn tôn
Những bổn tôn dành cho cá nhân không thể ngang bằng.

Thân huyễn này thoát khỏi ốm đau
Thì tốt hơn nhiều so với thuốc thang bình thường.

Thiền giả Milarepa này
Những hành giả tham thiền bình thường không thể ngang bằng.

Ông có hạnh phúc không, hỡi thiền giả ?
Hãy nghe thêm nữa, chư dakini :
Trong Động Pháp Đài Kim Cương Núi Xám
Tôi tìm định-như-kim-cương(43)
Tịnh quang vô sanh này của bản thân tâm thức
Thấm nhuần tánh Không và lòng bi
Bây giờ tôi hiểu rằng nó là sanh tử
Đối với người không chứng ngộ, trong khi với người chứng ngộ
Nó chiếu sáng như là pháp thân.

Bây giờ tôi hiểu sự hiển lộ
Của pháp thân linh thánh cho lợi lạc của riêng tôi
Trong thực tại bất sanh bất diệt,
Rạng rỡ, trong trẻo, không chút dấu vết nhiễm ô.

Thúc đẩy bởi tình thương và lòng bi
Cho những ai chưa chứng ngộ
Một trạng thái tự nhiên như vậy,
Tôi hồi hướng mọi hoạt động cho sự lợi lạc của những người khác
Với sự mong muốn mạnh mẽ họ được giải thoát.
Bây giờ tôi đã biểu lộ sắc thân của tôi
Cung cấp lợi lạc cho những người khác theo nhu cầu của họ.

“Chết” chỉ là một định kiến ;
Tôi đã thấu rõ định kiến cũng là pháp thân
Tự do với sanh, tự do với tử.

Kỳ diệu ! Kỳ diệu ! Những sự vật trong sanh tử
Không hiện hữu, mà chỉ xuất hiện ! Kỳ diệu vĩ đại !

Con dâng cúng bài ca này của lòng tôn kính, lama thiêng liêng !
Hãy chia xẻ buổi tiệc tiếng nói này, chúng hội dakini !


Ngài lại dấn thân vào thiền định. Một hôm thí chủ Darma Gyel đến mang theo một bao bột và một lườn thịt, nói rằng, “Con chờ ngài đã lâu. Con mang bột và lương thực đến.” Sau khi nhìn quanh, ông nói, “Không có cả một chậu đựng nước mưa ở phía ngoài hang. Hẳn ngài phải có điều bất tiện.”

Mila hát để trả lời :

Đại dịch giả Marpa,
Lama thiêng liêng, quý báu, đầy đủ khả năng,
Con thường trực cầu nguyện ngài –
Che chở cho con với sự chú ý không dao động.

Hãy nghe, thí chủ tín tâm :
Cái gì không tịnh là thanh tịnh –
Tịnh quang này là giác.

Cái gì không ấm là ấm –
Cái áo vải chật hẹp này là ấm.

Cái gì không lạc phúc là lạc phúc –
Thân huyễn này là lạc phúc.

Cái gì không hoan hỷ là hoan hỷ –
Giấc mộng này là hoan hỷ.

Ngài có hạnh phúc không, thiền giả ?
Hang Kim Cương Núi Xám có cao hay không ?

Nếu Núi Xám không cao
Làm sao chim kên kên có thể vút bay trên đó ?

Nếu bờ đá này không lạnh,
Làm sao những dòng suối và sông có thể đông cứng ?

Nếu tôi không được sưởi ấm bởi cái lạc của nội nhiệt tummo,
Làm sao một cái áo vải có thể giữ cho tôi ấm ?

Nếu tôi không ăn thực phẩm của việc định tâm,
Làm sao tôi có thể chịu đựng cơn đói không có lương thực ?

Nếu tôi không uống dòng giác ngộ,
Làm sao tôi có thể chịu khát không có nước ?

Nếu lời dạy của lama không sâu xa,
Làm sao chúng có thể chiến thắng những ma quỷ và những chướng ngại ?

Nếu thiền giả này không chứng ngộ,
Làm sao nó có thể ở trong núi non hiu quạnh ?

Do lòng tốt của lama khéo léo của tôi
Tôi đã làm cho thực hành thành sự quan tâm thiết yếu của tôi.

Làm sao người xem mọi sự như bạn
Lại tìm thấy cái gì khó chịu, bất tiện ?

Xin sẽ gặp ông lại, Darma Gyel.
Vị thí chủ mang lương thực đến vào một dịp khác, nhưng ông thấy bên trong hang hoàn toàn ngập nước. Nhớ lama của mình, ông khóc và ra đi. Người địa phương nói với ông rằng Mila còn sống ở đó nên ông trở lại kiếm. Ông lại thấy bên trong hang toàn là lửa cháy. Cầu nguyện lama của mình, ông bỏ đi. Người ta lại quả quyết ngài còn ở đó, nên ông trở lại và thấy cái hang biến mất. Ông nghĩ ra rằng ông không thể tìm thấy Mila do nghiệp chướng của ông, thế nên ông ở lại đó và cầu nguyện mãnh liệt trong suốt ba ngày. Rồi vào buổi sáng, một hòm màu trắng đựng toàn thánh tích xuất hiện. Ông đảnh lễ hòm đựng thánh tích và đi vòng quanh cầu nguyện. Rồi ba ngày sau vào sáng sớm ông thấy hòm chứa thánh tích biến thành Jetsušn Milarepa. Vui mừng ông đảnh lễ và sờ chân ngài. “Tại sao con không thể tìm thấy ngài quá lâu như vậy ?” Mila hát :

Lama Vajradhara linh thánh của con,
Kính lễ Lotsawa, ngài phát lộ
Tinh túy của đại ấn vô sanh,
Con cầu nguyện – xin ban cho con những phước lành.

Tôi sẽ trả lời câu hỏi của ông,
Thí chủ tín tâm – hãy chăm chú nghe :

Ở Động Pháo Đài Kim Cương Núi Xám
Tôi, Milarepa Tây Tạng,
Đến để thiền định theo sự hướng dẫn của chư dakini.
Nhiều kinh nghiệm và chứng ngộ đã hiện lên
Và bây giờ tôi đã thấy thật tánh của tâm thức tôi,
Nhưng tôi sẽ không phát lộ những bí mật ấy ngay bây giờ.

Thí chủ, khi ông đến trước đây
Lúc ấy tôi đang tập trung
Vào thiền quán về nước(44)
Ông đã thấy cái hang ngập đầy nước.
Sau đó ông thấy sự thiền quán về lửa
Rồi sự thiền quán về không khí,
Và cuối cùng hòm thánh tích màu trắng
Xuất hiện khi tôi tập trung
Vào thiền quán về đất

Khi nghiệp chướng của ông đã được dẹp bỏ,(45) ông thấy tôi.
Hãy ngậm miệng – chớ nói với ai.

Mọi hình tướng xuất hiện đều là giả ảo.
Những xuất hiện giả ảo là mạn đà la của huyễn,
Nhưng với người không chứng ngộ chúng có vẻ là thực theo điều kiện.

Ông có hiểu điều này không Darma Gyel ?
Mục đích của Mila được tự nhiên thành tựu –
Một phước lớn cho những tín đồ
Như Darma Gyel khi đi vào con đường giác ngộ.

Ông bị chìm ngập. Mùa đông năm ấy Mila dạy ông năm giai đoạn,(46) và qua kinh nghiệm chứng ngộ tốt đẹp ông có một chỗ đặt chân trên con đường.


uongdongsuoinui-08


Mila giữa một hào quang cầu vồng


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4060)
Phật Giáo Tại Hoa Kỳ - Thích Nguyên Tạng, Hoa Kỳ, một quốc gia ở lục địa Bắc Mỹ, gồm 50 tiểu bang. Diện tích 9,4 triệu m2, dân số 326,766,748 triệu người (thống kê 2018, dân số Hoa Kỳ đứng hàng thứ ba thế giới, sau Trung Quốc và Ấn Độ), mật độ dân cư: 26,6 người/km2 . Tuổi thọ trung bình: 75,9 tuổi; học sinh cấp 2: 98%; thu nhập bình quân đầu người: 55.925 đô la. Đây là một quốc gia được thành lập từ cuối thế kỷ 18 (từ 13 thuộc địa của Anh quốc). Nhưng đến cuối thế kỷ 19 đã trở thành một nước tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa, bắt đầu đi xâm lược và mở rộng thị trường trên khắp hoàn cầu. Từ sau thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ đã trở thành một nước tư bản độc quyền, đứng đầu hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới. Hoa Kỳ cũng được xem là một quốc gia có nền dân chủ xưa nhất trong các nền dân chủ lớn hiện đại.
18/10/2017(Xem: 7615)
Lịch sử Phật Giáo qua tem bưu chính, Trần Thanh Lý biên soạn
08/06/2017(Xem: 6540)
Ngũ Tổ Tự là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, là một trong những ngôi đại già lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường. Sau khi Hoằng Nhẫn khai sáng đạo tràng tại Đông Sơn (東山), gây chấn động toàn quốc, môn đồ thường trú đương thời có khi lên đến cả ngàn người. Từ khi Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705) tức vị, phật giáo được xem trọng hơn.
20/04/2017(Xem: 7578)
Với tôi, tiếng Nhật là ngoại ngữ thứ 3 mà tôi phải học (sau tiếng Anh và tiếng Pháp) vào năm 1972 khi tôi mới đến Nhật. Lúc ấy hầu như tôi không biết một tiếng Nhật nào cả. Là một Tăng Sĩ của Phật Giáo Việt Nam, năm 1971 sau khi học xong Trung Học Đệ Nhị cấp tại Việt Nam, vì thích đi du học tại Nhật Bản nên tôi liền đến Tòa Đại Sứ của Nhật tại miền Nam Việt Nam để tìm hiểu và nộp đơn xin du học. Kết quả là vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 tôi đã đến Nhật.
26/12/2016(Xem: 5908)
Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các giáo viên thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học sinh muốn tìm học về tôn giáo hòa bình này. Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền giáo nhưng là
26/12/2016(Xem: 8797)
Châu Phi cho đến bây giờ vẫn là lục địa đen nghèo đói, bệnh tật và lạc hậu trong con mắt thế giới. Nhưng có một góc khác của châu Phi ít có người biết đến Phật giáo ở Châu Phi. Phật pháp đã được ươm mầm trên mảnh đất khô cằn Châu Phi, người dân bắt đầu biết đến Phật, Pháp và Tăng, tuy nhiên có những chuyện Phật bi hài chỉ có ở lục địa đen mà không thể có ở những xứ khác.
09/11/2016(Xem: 9472)
Có khoảng 250 Đại Biểu chính thức của Hội Đồng Điều Hành Tăng Gìa Thế Giới gồm 36 Quốc Gia về Đài Bắc, Đài Loan tham dự Hội Nghị từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 11 năm 2016 vừa qua. Hòa Thượng Thích Như Điển là thành viên của Ủy Ban Nghiên cứu và phát triển Phật Giáo trên thế giới cùng với đông đảo chư Tăng Ni và Phật Tử Việt Nam cũng đã có mặt trong những ngày trọng đại nầy.
09/06/2016(Xem: 9469)
Tôi tới một miền quê, kề bên một trận địa vào một buổi chiều hoe nắng. Ở đây, cánh đồng loáng nước nằm dài vắng bóng người nông dân cần mẫn. Nhìn vào thôn xóm không một bóng người, khóm tre xơ xác, mái im lìm ! Qua một đêm, ngủ đỗ, sáng hôm sau trở dậy lên đường. Trong ánh nắng sớm mai, đố ai biết có gì đổi khác. Nhìn vào thôn xóm vẫn không một bóng người, vẫn khóm tre xơ xác, mái tranh im lìm. Nhưng giải đồng loáng nước chiều qua đã xanh rì ngọn mạ. Tôi nghĩ tới bóng trăng đêm trước, đến những đoàn người lũ lụt trở về đây, đến những bàn tay mềm mại cấy từng hàng mạ trên giải đồng rộng mênh mông. Trong lúc bom đạn cứ tơi bời trên các đô thành làng mạc, trong lúc chiến tranh cứ tiếp tục gieo rắc tang tóc và đổ nát thì ở đây, nguời dân ViệtNam thản nhiên gieo nguồn sống. Nhành lúa mới như một tuổi xuân vùng trổi dậy, tượng trưng cho sức sống mảnh liệt cho cả một dân tộc. (tác giả Thích Nhất Hạnh)
19/05/2016(Xem: 31864)
Bắt đầu từ ngày 06 tháng 4 năm 2016, cá biển tự nhiên và cá nuôi lồng bè của ngư dân ven biển chết hàng loạt, bắt nguồn từ khu kinh tế Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh), lan xuống các tỉnh lân cận (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng…) suốt dọc trên 200 cây số bờ biển. Ngay cả rạn san hô, “nhà ở” của các sinh vật dưới biển, cách bờ biển từ 1-6 hải lý, chạy dài từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh Quảng Bình, cũng đã bị phá hủy trong các đợt cá chết vừa qua; san hô chết, nhiều sinh vật biển chết theo (theo báo cáo ngày 06.5.2016 của chính quyền địa phương thôn Nhân Nam, xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình).
01/05/2016(Xem: 5823)
Tỳ Kheo Ni Thubten Chodron trở thành vị nữ tu sĩ Phật Giáo kể từ năm 1977. Lớn lên tại Los Angeles, ni trưởng tốt nghiệp với bằng danh dự trong ngành lịch sử từ Đại Học UCLA và tốt nghiệp ngành giáo dục tại Đại Học USC. Sau nhiều năm nghiên cứu và dạy Phật Học tại Châu Á, Châu Âu, và Hoa Kỳ, ni trưởng trở thành người khai sơn và trú trì Tu Viện Sravasti Abbey tại Tiểu Bang Washington
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]