Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Bài ca Cây Gậy Sừng

09/01/201106:23(Xem: 4369)
10. Bài ca Cây Gậy Sừng

10

Bài ca Cây Gậy Sừng


Jetsušn và Seben Repa cùng đến Nyang Thượng trong tỉnh Tsang. Qua một vùng xa lạ, họ đến ven một làng nơi có một số người tụ tập. Mila nói với họ, “Chúng tôi hai thiền giả có lời nguyện chỉ khất thực ở “cửa nhà đầu tiên”. Có người nào nhiều đức tin xin cho tôi một ít thức ăn.”

Một người đàn ông trẻ, khoảng hơn ba mươi, hỏi, “Các thầy từ đâu tới ?”

“Chúng tôi đến Tsang từ Tây Tạng Thượng.”

“Người ta nói rằng một thiền giả tốt thì có thể rút ra những thí dụ từ bất cứ vật hay việc gì. Hãy hát cho chúng tôi một bài ca về những ý nghĩa tượng trưng của cây gậy sừng sơn dương trong tay thầy ; rồi tôi sẽ cúng thức ăn.”

Bấy giờ Jetsušn hát bài ca này :

Con cầu nguyện dưới chân Marpa, người tốt nhất trong loài người,
Ngài đã nuôi nấng con với đại bi không giới hạn
Khi đắm mình trong tịnh quang của Đại Ấn
Trong cung điện Pháp thân trống không và thoát khỏi mọi tạo tác.
Xin hãy ban phước cho tất cả chúng sanh để hướng họ đến chánh pháp !

Hãy nghe điều này, thí chủ hỏi đạo :
Cái sừng này
Mà tôi, thiền giả cầm trong tay –
Nó từ đâu có ?
Nó đến từ vùng đất phương bắc của chư thiên của sự thịnh vượng.
Nguồn gốc nó từ xứ sở chư thiên của thịnh vượng
Tượng trưng sự thịnh vượng của tôi qua tri túc.

Nó mọc trên đầu một con sơn dương.
Nó lớn trên đầu một chúng sanh
Tượng trưng thực tế quy ước.

Cái sừng thì vô tri, không có sự sống.
Sự vô tri và không có người tri giác này
Tượng trưng thực tế tối hậu.

Cắt nó từ đầu con vật
Tượng trưng sự phân ly của thân và tâm ;
Phần gốc đồ sộ của nó
Tượng trưng về sự hiểu biết về cội gốc ẩn khuất của sanh tử,
Và nhiều sống của nó
Tượng trưng những ngọn sóng chìm ngập của khổ đau
Trên đại dương sanh tử luân hồi.

Ba chỗ cong của cái sừng này
Tượng trưng sự đi lạc vào ba cảnh giới thấp
Qua những việc xấu sanh ra từ ba độc ;

Những đoạn thẳng giữa những chỗ cong
Chỉ rằng dù hiện giờ chúng ta đang lang thang trong sanh tử,
Thì mục đích tối hậu sau cùng sẽ được đạt đến.

Cái sừng này trống rỗng bên trong
Tượng trưng sự trống không của sanh tử ;
Màu sậm của nó,
Là tính bất biến của thực tại ;
Và sự bền chắc và cứng rắn của nó,
Là sự chuyên cần không thối chuyển trong Pháp
Của tôi, thiền giả repa Tây Tạng.

Mũi nhọn này ở dưới cái sừng
Chỉ ra rằng tôi, thiền giả repa Tây Tạng,
Bay như một mũi tên bắn đi
Qua không gian của sáu cõi sanh tử.

Mười cái nút của sợi dây thừng ở phần đuôi sừng
Chỉ ra rằng tôi, thiền giả repa Tây Tạng,
Đã đạt đến cung điện của pháp thân
Bằng cách du hành qua mười địa của bồ tát.

Cắm đầu sừng xuống đất
Tượng trưng sự dẫn dắt cho chúng sanh địa ngục ở bên dưới.
Hay đôi khi tôi để nằm trên mặt đất
Để chỉ sự dẫn dắt cho ma quỷ và thú vật lạc lầm.
Đôi khi tôi chỉ nó lên trời
Để tượng trưng sự thuần hóa chư thiên và bán-thiên,
Và đôi khi tôi cầm lấy nó và dạo chơi các miền
Tượng trưng sự thuần hóa và dẫn dắt loài người.
Lỗ hổng trên cán này được khoan xuyên qua gậy
Chỉ rằng tâm tôi xuyên suốt những hình tướng không chướng ngại
;
Cái bọc cán da hoẵng mềm mại này
Chỉ ra tính cách nhu nhuyễn của tâm thiền giả.
Cái dây cán gậy bền dai không thể đứt này
Chỉ rằng tôi, thiền giả repa Tây Tạng
Không sợ phải rơi vào những cảnh giới thấp.

Bài ca này diễn tả ý nghĩa hiện thực,
Nhưng không chắc những biểu tượng được thấu hiểu ;
Vậy thì bây giờ hãy nhận một bài ca giải thích :

Mang cây gậy sừng này
Tượng trưng sự chiến đấu của tôi với những con chó dữ của sân hận
Khi lang thang các miền không mục đích.

Bài ca ngắn này từ đôi môi tôi
Chỉ rằng tôi kiếm đồ nuôi dưỡng bằng khất thực ;
Và ngôn ngữ tượng trưng của bài ca
Chỉ ra chuyện tầm phào trẻ con của một thiền giả.

Hãy hiểu ý nghĩa của nó, chư thiên và loài người !
Hãy biến nó thành một nguồn cảm hứng cho đức hạnh !
Hãy dùng nó như một nhắc nhở cho niềm tin !

Mọi người tràn ngập xúc động và xin Mila ban phước, họ nói, “Bây giờ chúng tôi đã được gặp mặt đối mặt với Milarepa mà chúng tôi vẫn thường nghe nói.” Họ cúng dường và thỉnh cầu dạy Pháp, nhưng Mila nhịn ăn ở đó trong ba ngày rồi ra đi.


Nhân cách năng động và cuộc đời hoạt động của Mila chứng minh sự kiện rằng thành tựu giác ngộ không phải là một loại “cái chết tình cảm” như một số người tưởng tượng. Phật quả không đạt được chỉ bằng đàn áp những xúc cảm ; thật vậy, Mật thừa dùng những yếu tố thường là quấy nhiễu này như chính nhiên liệu của thực hành. Sự hiểu lầm về phương tiện phát triển cá nhân đã xảy ra ở mọi thời, thế nên Mila giải thích sự chứng đắc Phật quả nghĩa là gì. Ngài bác bỏ những ý tưởng cho rằng trẻ con và thú vật thì giác ngộ một cách tự nhiên, rằng những thần lực siêu nhiên là một dấu hiệu của chứng ngộ và sự thực hành những cấp độ nhập định đầy phúc lạc dẫn về hướng giác ngộ. Rồi ngài tóm lược hành trình của con đường đến giác ngộ và kết thúc với một chuỗi dài những chỉ bảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/06/2011(Xem: 8308)
Vào năm 1949, tôi đã cùng thầy Trí Hữu, một vị Thượng tọa từ Đà Nẵng thành lập nên Phật Học Đường Ấn Quang ở Sài Gòn. Tôi dạy lớp sơ cấp đầu cho các vị Sadi. Hồi đó tên chùa là Ứng Quang. Chùa vách tre lợp lá rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang diễn ra giữa quân đội Pháp và lực lượng kháng chiến Việt Minh.
18/06/2011(Xem: 4854)
Phong trào Phật giáo nhân gian (人間佛教) xuất hiện vào đầu thế kỷ 20. Từ những năm thập niên 80 thế kỷ trước, phong trào này trở thành một khuynh hướng chính của Phật giáo ở Trung Hoa lục địa, Đài Loan và Hồng Kông, vượt thoát những khác biệt tông phái và vùng miền. Cho dù ở bên trong phạm vi Phật giáo, hay ở trong giới học giả hay các phân khoa hành chính tôn giáo, mỗi khi thảo luận về tình hình hiện nay và việc phát triển Phật giáo Trung Quốc trong tương lai, người ta không thể bỏ qua chủ đề Phật giáo nhân gian.
10/06/2011(Xem: 6084)
Cách đây hơn hai nghìn năm, Việt Nam là trung tâm mậu dịch buôn bán, rất nhiều thương thuyền của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước Nam hải khác đến miền bắc Việt Nam. Các Tăng lữ Ấn thường đi cùng các thuyền buôn trên đường đến Trung Quốc, dừng lại Việt Nam trong một thời gian ngắn. Vì vậy có thể nói, Việt Nam tiếp xúc Phật giáo Ấn Độ sớm hơn Trung Quốc. Tuyến đường biển là tuyến đường Phật giáo tiểu thừa Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và cũng là con đường Tây vực truyền vào Trung Quốc; mặt khác, Phật giáo Việt Nam lại được truyền đến từ Trung Quốc (Thiền Nam tông), chính ở đây diễn ra sự giao hội, dung hợp hết sức thú vị của hai dòng phái Phật giáo này diễn ra trên đất Giao Chỉ. Một là Phật giáo Nam tông hai là Phật giáo Bắc tông.
23/05/2011(Xem: 10297)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
14/05/2011(Xem: 6136)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thức mà Phật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
06/05/2011(Xem: 7597)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
27/04/2011(Xem: 7287)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự do và linh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
18/04/2011(Xem: 6004)
Vào tháng Mười năm 2002, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 sẽ truyền pháp Thời Luân ở Graz, Áo Quốc. Sự kiện được thực hiện công cộng cho cả những Phật tử lẫn không Phật tử. Mục tiêu của lễ truyền pháp là để cung cấp một cơ hội cho mọi người tất cả mọi tín ngưỡng tụ họp trong một không khí hòa bình để lắng nghe giáo huấn về từ ái và bi mẫn và để tái khẳng định chí nguyện của mọi người để duy trì đạo đức thuần khiết từ truyền thống của họ. Do vậy, lễ truyền pháp được công khai hóa như “Giáo Pháp Thời Luân vì Hòa Bình Thế Giới”. Với những hành giả Phật tử, mục tiêu bổ sung là ban phép gia trì cho họ để dấn thân trong những thực hành mật thừa nâng cao của Giáo Pháp Thời Luân.
10/04/2011(Xem: 5889)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
25/03/2011(Xem: 4675)
Kỳ Na giáo là lối đọc thành tiếng theo phiên âm Hán Việt danh xưng của đạo Giaina. Trong một số sách tiếng Việt đang lưu hành, thường để nguyên tên đạo Giaina hoặc đạo Jaina. Tiếng Anh là Jainism; tiếng Pháp là Jainisme hay Djainisme. Trong Kinh Trung Bộ của Phật giáo, Kỳ Na giáo được gọi Nagantha: là Ly hệ phái. [1]
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]