Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)

15/12/202419:24(Xem: 688)
Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)



ht thich giai quang (03)ht thich giai quang (02)ht thich giai quang (01)

ht thich giai quang (41)

Tiểu Sử

Hòa Thượng THÍCH  GIẢI QUẢNG

( 1944 – 2024 )

 (  Trưởng Môn phong tổ đình Thọ Sơn – Quảng Ngãi.

Khai sơn chùa Quảng Hiệp – chùa Quảng Phước, Đồng Nai )

 

Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm  mồng 3 tháng giêng năm Giáp Thân), tại xã  Bình Yến, huyện Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi, trong gia đình có tám  Anh Chị Em, Hòa Thượng là con trai Út trong nhà.

Thân phụ là Cụ Ông Trương Hiển, pháp danh Như Tuệ, Cụ Bà là Nguyễn Thị Hãnh, pháp danh Như Nguyện, đồng nguyên quán tại xã Bình Yến, Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Thuở nhỏ Hoà Thượng đã biểu lộ là một người con vô cùng hiếu thảo, một cậu bé thông minh chăm học, và đặc biệt thường theo Cha Mẹ đến Tổ Đình  Hải Lâm vào mỗi ngày Sóc Vọng. Tổ Đình Hải Lâm do cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín chúng con thường xưng gọi là Sư Ông, khai sơn năm 1928, đây là ngôi Chùa rất gần nhà song thân của Thầy, nhờ cơ duyên đó đã gieo hạt nhân duyên cho Thầy hướng đến đời sống tâm linh cho phương trời cao rộng sau này.

Thế nhưng thật tiếc thương! năm Thầy mới chưa đầy 10 tuổi ( 1954), cụ Ông Thân Sinh của Thầy qua đời, trong nỗi đau buồn của đại gia đình chưa được bao lâu thì sau đó mấy năm Cụ Bà Thân Sinh cũng từ giã cõi đời, Lúc đó Thầy mới được 14 tuổi ( 1958). Đau đớn tột cùng, nỗi thân phận của người con mồ côi trong biển đời mênh mông vô tận.

Cũng trong thời gian này (1958), cơ duyên cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín từ trong Tổ Đình Thọ Sơn ra đảo. Thầy đến đảnh lễ Sư Ông và như cơ duyên nhiều đời được định sẵn, lòng chánh tín xuất gia được khơi dậy, Thầy xin Sư Ông xuất gia, sau đó được sự đồng ý của các Anh Chị trong nhà, Thầy vào Tổ Đình Thọ Sơn tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi, phát tâm công quả, lập hạnh tịnh nhân tu học. Thầy thọ Tam Quy Ngũ Giới và được Sư Ông Thích Khánh Tín ban cho pháp danh là Như Nghĩa, do yêu thích pháp danh học Phật nên Thầy dùng pháp danh thay cho thế danh.

Sau 3 năm tinh tấn công quả, tu học vào ngày lễ Vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 2 năm Tân Sửu (1961), Thầy chính thức được Sư Ông Thích Khánh Tín thế phát xuất gia. Từ đây, Thầy đã phát tâm tinh tấn dõng mãnh tu học, sớm hôm công quả tu bồi phước đức. Do vậy Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín và quý Sư Bác như Hòa Thượng Thích Giải An, Hòa Thượng Thích Như Hậu, Hòa Thượng Thích Như Thành,v.v.. lúc sinh thời vô cùng thương yêu và tận tâm trực tiếp dạy dỗ theo Thiền lâm quy cũ, nội điển... Cũng trong thời điểm này Thầy đã hoàn tất chương trình tú tài toàn phần tại trường tỉnh. Thời bấy giờ, Thầy là niềm tự hào của người con hải đảo.

Từ năm 1965 đến năm 1969, Ngài được Bổn sư gởi ra ngụ tại chùa Tịnh Quang, quận Liên Chiểu, tu học với Hòa thượng Thích Tịnh Giác, học Phật học tại Học Viện Phổ Đà.

Ngày 1 tháng 8 năm 1969 (PL 2513), Ngài thọ giới sa-di tại giới đàn chùa tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi (nay là chùa Pháp Hóa) do chính Hòa thượng Bổn sư làm đàn đầu truyền giới. Sau khi thọ giới Sa Di Thầy được ban cho pháp tự Giải Quảng. Và điều đặc biệt là Thầy đậu thủ khoa trong kỳ thi sát hạch giới tử.  Với bản tánh thông minh thế học và từng bước thẩm sâu Phật học, nên Thầy rất được chư Tăng Ni  thương mến.

Trong ba ngày 19, 20, 21 tháng 9 năm Quý Sửu ( ngày 14,15,16 tháng 10 năm 1973),  Phật lịch 2017, tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Trung Phần, Nha Trang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức, Hòa Thượng Đàn đầu- Hòa Thượng Thích Phúc Hộ, Yết Ma-a-xà lê Hòa Thượng Thích Giác Tánh, Giáo Thọ A-xà lê Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm. Thầy được đăng đàn thọ cụ túc giới chính thức bước vào hàng ngũ chúng trung tôn, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.

 

Từ năm 1973-1975, Thầy nhập chúng tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam, quận Gò Vấp, Sài Gòn và theo học chương trình cử nhân Phật học tại viện đại học Vạn Hạnh.

Tháng 6 năm 1975, Thầy trở về Tổ Đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi, ngày 8 tháng 11 năm 1975 (Mồng 6 tháng 10 năm Ất Mão), Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín bổ nhiệm làm phó trụ trì chùa Hải Lâm tại quê nhà Lý Sơn.

Từ năm 1979- 1981: Do hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh, Thầy bị đưa đi kinh tế mới tại vùng núi Thọ An, xã Bình An, huyện Bình Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn trăm bề cơ cực. Thế nhưng, Thầy lại tạo duyên Phật pháp cho rất nhiều người, sáng rẫy chiều nương, đêm đến bên bếp lửa hồng Thầy kể truyện Phật giáo, chia sẻ Phật lý cơ bản cho những người hữu duyên, dạy cho những em nhỏ thất học được biết đọc biết viết.

Năm 1981-1984: Thầy vào lại Quảng Hương Già Lam theo học khóa Phật học Cao Đẳng Chuyên Khoa do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ chủ trương với sự giảng dạy của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát v.v...

Ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Trí Thủ thị tịch tại Quảng Hương Già Lam. Ngày 8 tháng 5 năm 1984, Thầy  rời Sài gòn về xã Phước Thái, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, gần nhà hai người anh ruột (Trương Đình Quý, Trương Đình Trọng), tạo mãi một mảnh đất nhỏ, làm một cốc lá, và sau này Thầy từng bước gây dựng Tịnh Thất Quảng Phước như ngày nay.

Ngày 20 tháng 8 năm năm 1984 ( ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý), Thầy được một số đạo hữu Phật tử tại ấp 3, xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai mời về hướng dẫn tu học, và từ đây ngôi Chùa Quảng Hiệp được hình thành. Lúc đầu chỉ vỏn vẹn mảnh đất nhỏ khoảng chừng 600 mét vuông, với ngôi chánh điện là 16 tấm tôn cũ, vách nền đều bằng đất, mỗi lần mưa gió to thường ướt đẫm, Thầy nghỉ tại phía sau nhà Tổ với chiếc giường nhỏ và cái bàn cũ thô sơ.

Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 9 năm Giáp Tý ( ngày 13 tháng 10 năm 1984), do thấy nhu cầu bức thiết trong đời sống sinh hoạt thường ngày của Thầy, Thầy  cùng quý Phật tử làm một căn nhà nhỏ bên cạnh bằng cây gỗ đơn sơ, mái lá. Chính căn nhà này trải suốt thời gian 40 năm tròn đã 3 lần chồng từng mái lá lợp lên và lớp tôn cũng gần như hư hoại. Thầy vẫn ở vậy, mặc cho gió nóng nắng mưa, từ những ngày đầu thành lập chùa cho đến khi Thầy viên tịch. Ngôi nhà nhỏ ấy trở thành ngôi phương trượng đậm dấu ấn tâm linh của bậc chân tu qua nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử khắp nơi.

 

Kể từ năm 1986 đến năm 2015, Thầy chuyên đảm trách bộ môn Hán Ngữ Cổ Đại, và Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa cho các trường Cao Trung Phật Học Tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Bên cạnh đó, Thầy còn là Giáo Thọ Sư của nhiều chùa, tự viện, hạ trường trong và ngoài tỉnh Đồng Nai, điển hình như Thiền Viện Thường Chiếu, Tu Viện Phật Ân, Tu Viện Phước Hoa, Chùa Phước Hải, Thiền Viện Liễu Đức ( Đồng Nai ),  Chùa Niết Bàn,  chùa Từ Nhãn, Chùa Bát Nhã ( Bà Rịa Vũng Tàu)chùa Quán Thế Âm ( Sài gòn),v.v… Với trí nhớ siêu việt, và  sự uyên thâm Phật pháp, Thầy  đã tận tâm trao truyền đến các thế hệ Tăng Ni hậu học, mà ngày hôm nay nhiều vị đã thành tài, phụng sự đạo pháp và quê hương.

Thầy còn được cung thỉnh vào Hội Đồng Thập Sư của nhiều  Đại giới đàn tỉnh Đồng Nai.

Năm 1993, Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thầy về chốn tổ Thọ Sơn cư tang. Từ đó hằng năm, mỗi ngày húy nhật Tôn sư, Thầy chưa bao giờ vắng mặt, thậm chí lễ húy nhật của quý Ngài trong môn phong Thọ Sơn Thầy luôn dành thời gian thăm viếng; một điều đặc biệt là Thầy chọn phương tiện di chuyển về quê trên chiếc xe đò bình dị như ngày nào.

Vì tâm huyết với đạo Pháp, vì hạnh nguyện giáo hoá độ tha không ngừng nghỉ; ngày mồng 8 tháng 10 năm Quý Dậu (ngày 21 tháng 11 năm 1993),  chính thức đặt viên đá xây dựng chánh điện chùa Quảng Hiệp làm chỗ cho tứ chúng tu học. Trong những năm tháng xây dựng và kiến tạo, dù trải qua không biết bao nhiêu gian lao vất vả của thời buổi kinh tế khó khăn, nhưng Thầy vẫn cứ mài miệt chắc chiu vun trồng hạnh nguyện. Ngày 7 tháng 1 năm 1996 (nhằm ngày 17 tháng 11 năm Ất Hợi), lễ khánh thành ngôi bảo điện chùa Quảng Hiệp, công trình so với thời điểm hiện tại thì thật sự rất khiêm tốn, nhưng xét trong thời điểm ấy thì thật là một sự cố gắng, tận tâm tận lực của Thầy và tứ chúng. 

Năm 2003, Hòa thượng Thích Giải An viên tịch, Thầy được cung thỉnh làm trưởng môn phong Tổ đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi. Thầy đã ân cần ủy cử pháp đệ Thích Như Quang, Thích Giải Cầu thay Thầy chăm sóc chốn Tổ.

 

Năm 2010, chi phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập, Thầy  được chư tôn đức cung thỉnh đảm nhiệm Phó Ban điều hành thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu.

Từ năm 2012, Thầy là thành viên của Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ cho đến khi viên tịch.

Ngày 19/12/2017, Thầy đến  Úc Châu, thăm viếng một số tự viện của chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệt tham dự lễ húy nhật Tổ Sư  Minh Hải Pháp Bảo  do Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Úc Châu tổ chức tại Tu Viện Từ Ân.

Tuy hoàn cảnh tại chùa còn nhiều khó khăn, nhưng Thầy luôn đặt hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng tu học lên hàng đầu. Tính đến nay, hàng đệ tử xuất gia của thầy được hơn 20 vị cả Tăng và Ni, hầu hết đã trưởng thành và hiện đang trụ trì các tự viện trong cũng như ngoài nước; còn đối với hàng Phật Tử tại gia thì trừ những vị tuổi già sức yếu, hay đã qua đời  phần đông vẫn về Chùa sinh hoạt như thường lệ, điều đó cũng đủ nói lên công đức hành hoạt Phật Sự của Thầy cao dày đến ngần nào.

Thầy cũng luôn ươm mầm cho thế hệ tương lai, Gia Đình Phật tử cũng là một Phật sự trọng yếu của đời Thầy. Từng lớp thanh thiếu niên từ nơi gia đình Phật tử Quảng Hiệp đã trưởng thành, có vị xuất gia trở thành Tăng Ni cùng góp phần xây dựng đạo pháp.

Mặc dù Thầy rất bận Phật sự, giáo dục Tăng Ni nhưng Thầy vẫn dành thời gian để biên soạn, phiên dịch: Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Trung Đẳng Phật Giáo Khoa Thư (phiên dịch)…Đây là những tài liệu quý giá cho các vị giáo thọ tham khảo để giảng dạy ở các trường Phật học.

 

Tròn 40 năm gắn bó với ngôi chùa Quảng Hiệp, với môn nhân đệ tử và đạo hữu Phật tử tỉnh Đồng Nai, Hòa thượng là một bậc thầy mô phạm làm chỗ nương tựa tâm linh cho người con Phật hữu duyên. Suốt cuộc đời, Ngài chủ trương “Tam thường bất túc”, sống hạnh thanh bần, nhẫn nại, khiêm cung, cuộc sống tối mực giản đơn trước cơn xoáy của văn minh vật chất. Đạo phong của Thầy được hình thành mới sự nghiêm trì giới luật, khắc kỷ tự thân, tinh chuyên niệm tu tập nên Ngài luôn tự tại trước phong ba bão tố của thời cuộc.

Sau thời gian ngắn thân mang trọng bệnh, biết thân tứ đại không thể duy trì, ngày 8 tháng 9 năm Giáp Thìn ( ngày 10 tháng 10 năm 2024) , Thầy điềm nhiên giáo huấn với các đệ tử hiện diện về cốt lõi tu hành đặc biệt là đời sống của bậc chân tu giữa xã hội hiện đại, Thầy còn di bút:

Cụ thể:

Không xe hơi nhà lầu

Chẳng ti vi tủ lạnh

Ngày chỉ cần ba bữa

Cơm với canh mà thôi

Thế gian sự như thế

Việc đời có rồi không”

 Sau đó Thầy cho đồ chúng biết trước ngày Thầy về với Phật ( ngày 15 tháng 10 năm Giáp Thìn), giữa sự lo lắng của toàn thể tứ chúng đệ tử của Thầy.

Tối ngày 14 tháng 10 năm Giáp Thìn Thầy vẫn an nhiên, điềm tĩnh, tâm trí sáng suốt nhớ từng học trò và những người thân cận của Thầy.

Hạnh nguyện châu viên, đúng 0 giờ 0 phút  (12 giờ đêm) ngày 15 tháng 11 năm 2024, (0 giờ 0 phút ngày rằm tháng 10 năm Giáp Thìn, Thầy an nhiên thị tịch trụ thế 81 năm, đạo lạp 66 năm, hạ lạp 52 năm.

Thầy viên tịch không chỉ là nỗi mất mát đau thương cho tứ chúng Phật tử chùa Quảng Hiệp, mà Phật giáo mất đi bậc chân tu thạc đức. Đức hạnh của Thầy là điểm sáng muôn đời cho hậu bối noi theo.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhất Thế, Chúc Thánh Pháp Phái, Khai kiến Quảng Hiệp, Quảng Phước Nhị Tự, húy thượng Như hạ Nghĩa, tự Giải Quảng, Trương Công Hòa Thượng Giác Linh Tôn Sư, Thùy Từ Nhã Giám.



Tân Hiệp, ngày 15 tháng 11 năm 2024
Môn Đồ Pháp Quyến phụng soạn




ht thich giai quang (1)ht thich giai quang (2)ht thich giai quang (3)ht thich giai quang (4)ht thich giai quang (5)ht thich giai quang (6)ht thich giai quang (7)ht thich giai quang (8)ht thich giai quang (9)ht thich giai quang (10)ht thich giai quang (11)ht thich giai quang (12)ht thich giai quang (13)ht thich giai quang (14)ht thich giai quang (15)ht thich giai quang (16)ht thich giai quang (17)ht thich giai quang (18)ht thich giai quang (19)ht thich giai quang (20)ht thich giai quang (21)ht thich giai quang (22)ht thich giai quang (23)ht thich giai quang (24)ht thich giai quang (25)ht thich giai quang (26)ht thich giai quang (27)ht thich giai quang (28)ht thich giai quang (29)ht thich giai quang (30)ht thich giai quang (31)ht thich giai quang (32)ht thich giai quang (33)ht thich giai quang (34)ht thich giai quang (35)ht thich giai quang (36)ht thich giai quang (37)ht thich giai quang (38)ht thich giai quang (39)ht thich giai quang (40)ht thich giai quang (41)ht thich giai quang (42)ht thich giai quang (43)ht thich giai quang (44)ht thich giai quang (45)ht thich giai quang (46)ht thich giai quang (47)ht thich giai quang (48)ht thich giai quang (49)ht thich giai quang (50)ht thich giai quang (51)ht thich giai quang (52)ht thich giai quang (53)ht thich giai quang (54)ht thich giai quang (55)ht thich giai quang (56)ht thich giai quang (57)ht thich giai quang (58)ht thich giai quang (59)ht thich giai quang (60)ht thich giai quang (61)ht thich giai quang (62)ht thich giai quang (63)ht thich giai quang (64)ht thich giai quang (65)ht thich giai quang (66)ht thich giai quang (67)ht thich giai quang (68)ht thich giai quang (69)ht thich giai quang (70)ht thich giai quang (71)ht thich giai quang (72)ht thich giai quang (73)ht thich giai quang (74)










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5721)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5525)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5784)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11938)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11890)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6295)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6995)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7579)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8980)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10298)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]