Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)

15/12/202419:24(Xem: 689)
Lễ Tưởng Nguyện Cố Hòa Thượng Thích Giải Quảng tại Tu Viện Từ Ân, Melbourne, Úc Châu (14/12/2024)



ht thich giai quang (03)ht thich giai quang (02)ht thich giai quang (01)

ht thich giai quang (41)

Tiểu Sử

Hòa Thượng THÍCH  GIẢI QUẢNG

( 1944 – 2024 )

 (  Trưởng Môn phong tổ đình Thọ Sơn – Quảng Ngãi.

Khai sơn chùa Quảng Hiệp – chùa Quảng Phước, Đồng Nai )

 

Hòa Thượng Thích Giải Quảng, thế danh Trương Đình Ân, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1944 ( nhằm  mồng 3 tháng giêng năm Giáp Thân), tại xã  Bình Yến, huyện Lý Sơn Tỉnh Quảng Ngãi, trong gia đình có tám  Anh Chị Em, Hòa Thượng là con trai Út trong nhà.

Thân phụ là Cụ Ông Trương Hiển, pháp danh Như Tuệ, Cụ Bà là Nguyễn Thị Hãnh, pháp danh Như Nguyện, đồng nguyên quán tại xã Bình Yến, Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Thuở nhỏ Hoà Thượng đã biểu lộ là một người con vô cùng hiếu thảo, một cậu bé thông minh chăm học, và đặc biệt thường theo Cha Mẹ đến Tổ Đình  Hải Lâm vào mỗi ngày Sóc Vọng. Tổ Đình Hải Lâm do cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín chúng con thường xưng gọi là Sư Ông, khai sơn năm 1928, đây là ngôi Chùa rất gần nhà song thân của Thầy, nhờ cơ duyên đó đã gieo hạt nhân duyên cho Thầy hướng đến đời sống tâm linh cho phương trời cao rộng sau này.

Thế nhưng thật tiếc thương! năm Thầy mới chưa đầy 10 tuổi ( 1954), cụ Ông Thân Sinh của Thầy qua đời, trong nỗi đau buồn của đại gia đình chưa được bao lâu thì sau đó mấy năm Cụ Bà Thân Sinh cũng từ giã cõi đời, Lúc đó Thầy mới được 14 tuổi ( 1958). Đau đớn tột cùng, nỗi thân phận của người con mồ côi trong biển đời mênh mông vô tận.

Cũng trong thời gian này (1958), cơ duyên cố đại lão Hoà Thượng Thích Khánh Tín từ trong Tổ Đình Thọ Sơn ra đảo. Thầy đến đảnh lễ Sư Ông và như cơ duyên nhiều đời được định sẵn, lòng chánh tín xuất gia được khơi dậy, Thầy xin Sư Ông xuất gia, sau đó được sự đồng ý của các Anh Chị trong nhà, Thầy vào Tổ Đình Thọ Sơn tại xã Nghĩa Hà, huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi, phát tâm công quả, lập hạnh tịnh nhân tu học. Thầy thọ Tam Quy Ngũ Giới và được Sư Ông Thích Khánh Tín ban cho pháp danh là Như Nghĩa, do yêu thích pháp danh học Phật nên Thầy dùng pháp danh thay cho thế danh.

Sau 3 năm tinh tấn công quả, tu học vào ngày lễ Vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 2 năm Tân Sửu (1961), Thầy chính thức được Sư Ông Thích Khánh Tín thế phát xuất gia. Từ đây, Thầy đã phát tâm tinh tấn dõng mãnh tu học, sớm hôm công quả tu bồi phước đức. Do vậy Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín và quý Sư Bác như Hòa Thượng Thích Giải An, Hòa Thượng Thích Như Hậu, Hòa Thượng Thích Như Thành,v.v.. lúc sinh thời vô cùng thương yêu và tận tâm trực tiếp dạy dỗ theo Thiền lâm quy cũ, nội điển... Cũng trong thời điểm này Thầy đã hoàn tất chương trình tú tài toàn phần tại trường tỉnh. Thời bấy giờ, Thầy là niềm tự hào của người con hải đảo.

Từ năm 1965 đến năm 1969, Ngài được Bổn sư gởi ra ngụ tại chùa Tịnh Quang, quận Liên Chiểu, tu học với Hòa thượng Thích Tịnh Giác, học Phật học tại Học Viện Phổ Đà.

Ngày 1 tháng 8 năm 1969 (PL 2513), Ngài thọ giới sa-di tại giới đàn chùa tỉnh hội Phật giáo Quảng Ngãi (nay là chùa Pháp Hóa) do chính Hòa thượng Bổn sư làm đàn đầu truyền giới. Sau khi thọ giới Sa Di Thầy được ban cho pháp tự Giải Quảng. Và điều đặc biệt là Thầy đậu thủ khoa trong kỳ thi sát hạch giới tử.  Với bản tánh thông minh thế học và từng bước thẩm sâu Phật học, nên Thầy rất được chư Tăng Ni  thương mến.

Trong ba ngày 19, 20, 21 tháng 9 năm Quý Sửu ( ngày 14,15,16 tháng 10 năm 1973),  Phật lịch 2017, tại Đại Giới Đàn Phước Huệ, Phật Học Viện Trung Phần, Nha Trang do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức, Hòa Thượng Đàn đầu- Hòa Thượng Thích Phúc Hộ, Yết Ma-a-xà lê Hòa Thượng Thích Giác Tánh, Giáo Thọ A-xà lê Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm. Thầy được đăng đàn thọ cụ túc giới chính thức bước vào hàng ngũ chúng trung tôn, nối pháp đời 41 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh.

 

Từ năm 1973-1975, Thầy nhập chúng tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam, quận Gò Vấp, Sài Gòn và theo học chương trình cử nhân Phật học tại viện đại học Vạn Hạnh.

Tháng 6 năm 1975, Thầy trở về Tổ Đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi, ngày 8 tháng 11 năm 1975 (Mồng 6 tháng 10 năm Ất Mão), Thầy được Sư Ông Thích Khánh Tín bổ nhiệm làm phó trụ trì chùa Hải Lâm tại quê nhà Lý Sơn.

Từ năm 1979- 1981: Do hoàn cảnh đất nước sau chiến tranh, Thầy bị đưa đi kinh tế mới tại vùng núi Thọ An, xã Bình An, huyện Bình Sơn, Tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn trăm bề cơ cực. Thế nhưng, Thầy lại tạo duyên Phật pháp cho rất nhiều người, sáng rẫy chiều nương, đêm đến bên bếp lửa hồng Thầy kể truyện Phật giáo, chia sẻ Phật lý cơ bản cho những người hữu duyên, dạy cho những em nhỏ thất học được biết đọc biết viết.

Năm 1981-1984: Thầy vào lại Quảng Hương Già Lam theo học khóa Phật học Cao Đẳng Chuyên Khoa do Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ chủ trương với sự giảng dạy của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Lê Mạnh Thát v.v...

Ngày 2 tháng 4 năm 1984 (tức ngày 2 tháng 3 năm Giáp Tý) đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Trí Thủ thị tịch tại Quảng Hương Già Lam. Ngày 8 tháng 5 năm 1984, Thầy  rời Sài gòn về xã Phước Thái, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, gần nhà hai người anh ruột (Trương Đình Quý, Trương Đình Trọng), tạo mãi một mảnh đất nhỏ, làm một cốc lá, và sau này Thầy từng bước gây dựng Tịnh Thất Quảng Phước như ngày nay.

Ngày 20 tháng 8 năm năm 1984 ( ngày 24 tháng 7 năm Giáp Tý), Thầy được một số đạo hữu Phật tử tại ấp 3, xã Tân Hiệp, huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai mời về hướng dẫn tu học, và từ đây ngôi Chùa Quảng Hiệp được hình thành. Lúc đầu chỉ vỏn vẹn mảnh đất nhỏ khoảng chừng 600 mét vuông, với ngôi chánh điện là 16 tấm tôn cũ, vách nền đều bằng đất, mỗi lần mưa gió to thường ướt đẫm, Thầy nghỉ tại phía sau nhà Tổ với chiếc giường nhỏ và cái bàn cũ thô sơ.

Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm, ngày 19 tháng 9 năm Giáp Tý ( ngày 13 tháng 10 năm 1984), do thấy nhu cầu bức thiết trong đời sống sinh hoạt thường ngày của Thầy, Thầy  cùng quý Phật tử làm một căn nhà nhỏ bên cạnh bằng cây gỗ đơn sơ, mái lá. Chính căn nhà này trải suốt thời gian 40 năm tròn đã 3 lần chồng từng mái lá lợp lên và lớp tôn cũng gần như hư hoại. Thầy vẫn ở vậy, mặc cho gió nóng nắng mưa, từ những ngày đầu thành lập chùa cho đến khi Thầy viên tịch. Ngôi nhà nhỏ ấy trở thành ngôi phương trượng đậm dấu ấn tâm linh của bậc chân tu qua nhiều thế hệ Tăng Ni và Phật tử khắp nơi.

 

Kể từ năm 1986 đến năm 2015, Thầy chuyên đảm trách bộ môn Hán Ngữ Cổ Đại, và Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Ấn Độ, Trung Hoa cho các trường Cao Trung Phật Học Tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu. Bên cạnh đó, Thầy còn là Giáo Thọ Sư của nhiều chùa, tự viện, hạ trường trong và ngoài tỉnh Đồng Nai, điển hình như Thiền Viện Thường Chiếu, Tu Viện Phật Ân, Tu Viện Phước Hoa, Chùa Phước Hải, Thiền Viện Liễu Đức ( Đồng Nai ),  Chùa Niết Bàn,  chùa Từ Nhãn, Chùa Bát Nhã ( Bà Rịa Vũng Tàu)chùa Quán Thế Âm ( Sài gòn),v.v… Với trí nhớ siêu việt, và  sự uyên thâm Phật pháp, Thầy  đã tận tâm trao truyền đến các thế hệ Tăng Ni hậu học, mà ngày hôm nay nhiều vị đã thành tài, phụng sự đạo pháp và quê hương.

Thầy còn được cung thỉnh vào Hội Đồng Thập Sư của nhiều  Đại giới đàn tỉnh Đồng Nai.

Năm 1993, Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thầy về chốn tổ Thọ Sơn cư tang. Từ đó hằng năm, mỗi ngày húy nhật Tôn sư, Thầy chưa bao giờ vắng mặt, thậm chí lễ húy nhật của quý Ngài trong môn phong Thọ Sơn Thầy luôn dành thời gian thăm viếng; một điều đặc biệt là Thầy chọn phương tiện di chuyển về quê trên chiếc xe đò bình dị như ngày nào.

Vì tâm huyết với đạo Pháp, vì hạnh nguyện giáo hoá độ tha không ngừng nghỉ; ngày mồng 8 tháng 10 năm Quý Dậu (ngày 21 tháng 11 năm 1993),  chính thức đặt viên đá xây dựng chánh điện chùa Quảng Hiệp làm chỗ cho tứ chúng tu học. Trong những năm tháng xây dựng và kiến tạo, dù trải qua không biết bao nhiêu gian lao vất vả của thời buổi kinh tế khó khăn, nhưng Thầy vẫn cứ mài miệt chắc chiu vun trồng hạnh nguyện. Ngày 7 tháng 1 năm 1996 (nhằm ngày 17 tháng 11 năm Ất Hợi), lễ khánh thành ngôi bảo điện chùa Quảng Hiệp, công trình so với thời điểm hiện tại thì thật sự rất khiêm tốn, nhưng xét trong thời điểm ấy thì thật là một sự cố gắng, tận tâm tận lực của Thầy và tứ chúng. 

Năm 2003, Hòa thượng Thích Giải An viên tịch, Thầy được cung thỉnh làm trưởng môn phong Tổ đình Thọ Sơn, Quảng Ngãi. Thầy đã ân cần ủy cử pháp đệ Thích Như Quang, Thích Giải Cầu thay Thầy chăm sóc chốn Tổ.

 

Năm 2010, chi phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu được thành lập, Thầy  được chư tôn đức cung thỉnh đảm nhiệm Phó Ban điều hành thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu.

Từ năm 2012, Thầy là thành viên của Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ cho đến khi viên tịch.

Ngày 19/12/2017, Thầy đến  Úc Châu, thăm viếng một số tự viện của chư tôn đức Tăng Ni, đặc biệt tham dự lễ húy nhật Tổ Sư  Minh Hải Pháp Bảo  do Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Úc Châu tổ chức tại Tu Viện Từ Ân.

Tuy hoàn cảnh tại chùa còn nhiều khó khăn, nhưng Thầy luôn đặt hạnh nguyện tiếp Tăng độ chúng tu học lên hàng đầu. Tính đến nay, hàng đệ tử xuất gia của thầy được hơn 20 vị cả Tăng và Ni, hầu hết đã trưởng thành và hiện đang trụ trì các tự viện trong cũng như ngoài nước; còn đối với hàng Phật Tử tại gia thì trừ những vị tuổi già sức yếu, hay đã qua đời  phần đông vẫn về Chùa sinh hoạt như thường lệ, điều đó cũng đủ nói lên công đức hành hoạt Phật Sự của Thầy cao dày đến ngần nào.

Thầy cũng luôn ươm mầm cho thế hệ tương lai, Gia Đình Phật tử cũng là một Phật sự trọng yếu của đời Thầy. Từng lớp thanh thiếu niên từ nơi gia đình Phật tử Quảng Hiệp đã trưởng thành, có vị xuất gia trở thành Tăng Ni cùng góp phần xây dựng đạo pháp.

Mặc dù Thầy rất bận Phật sự, giáo dục Tăng Ni nhưng Thầy vẫn dành thời gian để biên soạn, phiên dịch: Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Trung Hoa, Giáo Trình Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Trung Đẳng Phật Giáo Khoa Thư (phiên dịch)…Đây là những tài liệu quý giá cho các vị giáo thọ tham khảo để giảng dạy ở các trường Phật học.

 

Tròn 40 năm gắn bó với ngôi chùa Quảng Hiệp, với môn nhân đệ tử và đạo hữu Phật tử tỉnh Đồng Nai, Hòa thượng là một bậc thầy mô phạm làm chỗ nương tựa tâm linh cho người con Phật hữu duyên. Suốt cuộc đời, Ngài chủ trương “Tam thường bất túc”, sống hạnh thanh bần, nhẫn nại, khiêm cung, cuộc sống tối mực giản đơn trước cơn xoáy của văn minh vật chất. Đạo phong của Thầy được hình thành mới sự nghiêm trì giới luật, khắc kỷ tự thân, tinh chuyên niệm tu tập nên Ngài luôn tự tại trước phong ba bão tố của thời cuộc.

Sau thời gian ngắn thân mang trọng bệnh, biết thân tứ đại không thể duy trì, ngày 8 tháng 9 năm Giáp Thìn ( ngày 10 tháng 10 năm 2024) , Thầy điềm nhiên giáo huấn với các đệ tử hiện diện về cốt lõi tu hành đặc biệt là đời sống của bậc chân tu giữa xã hội hiện đại, Thầy còn di bút:

Cụ thể:

Không xe hơi nhà lầu

Chẳng ti vi tủ lạnh

Ngày chỉ cần ba bữa

Cơm với canh mà thôi

Thế gian sự như thế

Việc đời có rồi không”

 Sau đó Thầy cho đồ chúng biết trước ngày Thầy về với Phật ( ngày 15 tháng 10 năm Giáp Thìn), giữa sự lo lắng của toàn thể tứ chúng đệ tử của Thầy.

Tối ngày 14 tháng 10 năm Giáp Thìn Thầy vẫn an nhiên, điềm tĩnh, tâm trí sáng suốt nhớ từng học trò và những người thân cận của Thầy.

Hạnh nguyện châu viên, đúng 0 giờ 0 phút  (12 giờ đêm) ngày 15 tháng 11 năm 2024, (0 giờ 0 phút ngày rằm tháng 10 năm Giáp Thìn, Thầy an nhiên thị tịch trụ thế 81 năm, đạo lạp 66 năm, hạ lạp 52 năm.

Thầy viên tịch không chỉ là nỗi mất mát đau thương cho tứ chúng Phật tử chùa Quảng Hiệp, mà Phật giáo mất đi bậc chân tu thạc đức. Đức hạnh của Thầy là điểm sáng muôn đời cho hậu bối noi theo.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Nhất Thế, Chúc Thánh Pháp Phái, Khai kiến Quảng Hiệp, Quảng Phước Nhị Tự, húy thượng Như hạ Nghĩa, tự Giải Quảng, Trương Công Hòa Thượng Giác Linh Tôn Sư, Thùy Từ Nhã Giám.



Tân Hiệp, ngày 15 tháng 11 năm 2024
Môn Đồ Pháp Quyến phụng soạn




ht thich giai quang (1)ht thich giai quang (2)ht thich giai quang (3)ht thich giai quang (4)ht thich giai quang (5)ht thich giai quang (6)ht thich giai quang (7)ht thich giai quang (8)ht thich giai quang (9)ht thich giai quang (10)ht thich giai quang (11)ht thich giai quang (12)ht thich giai quang (13)ht thich giai quang (14)ht thich giai quang (15)ht thich giai quang (16)ht thich giai quang (17)ht thich giai quang (18)ht thich giai quang (19)ht thich giai quang (20)ht thich giai quang (21)ht thich giai quang (22)ht thich giai quang (23)ht thich giai quang (24)ht thich giai quang (25)ht thich giai quang (26)ht thich giai quang (27)ht thich giai quang (28)ht thich giai quang (29)ht thich giai quang (30)ht thich giai quang (31)ht thich giai quang (32)ht thich giai quang (33)ht thich giai quang (34)ht thich giai quang (35)ht thich giai quang (36)ht thich giai quang (37)ht thich giai quang (38)ht thich giai quang (39)ht thich giai quang (40)ht thich giai quang (41)ht thich giai quang (42)ht thich giai quang (43)ht thich giai quang (44)ht thich giai quang (45)ht thich giai quang (46)ht thich giai quang (47)ht thich giai quang (48)ht thich giai quang (49)ht thich giai quang (50)ht thich giai quang (51)ht thich giai quang (52)ht thich giai quang (53)ht thich giai quang (54)ht thich giai quang (55)ht thich giai quang (56)ht thich giai quang (57)ht thich giai quang (58)ht thich giai quang (59)ht thich giai quang (60)ht thich giai quang (61)ht thich giai quang (62)ht thich giai quang (63)ht thich giai quang (64)ht thich giai quang (65)ht thich giai quang (66)ht thich giai quang (67)ht thich giai quang (68)ht thich giai quang (69)ht thich giai quang (70)ht thich giai quang (71)ht thich giai quang (72)ht thich giai quang (73)ht thich giai quang (74)










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8530)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
09/04/2013(Xem: 15420)
Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
09/04/2013(Xem: 13314)
Thiền sư Minh Châu Hương Hải là một tác gia lớn không những của văn học và triết học Phật giáo Việt Nam, mà còn của văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. Từ nửa cuối thế kỷ 18, cuộc đời và tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đã lôi cuốn sự chú ý của những người trí thức đương thời, trong đó nổi bật nhất là nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784).
08/04/2013(Xem: 8256)
Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng.
08/04/2013(Xem: 6477)
Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”. Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.
08/04/2013(Xem: 6331)
Giờ đây, kính xin Ban Tổ Chức cho phép chùa Thiên Minh – Huế chúng con có đôi lời tác bạch trước Giác Linh Cố Hòa thượng. Ngưỡng bái bạch Giác Linh Cố Hòa Thượng! Tháng 08 tiết mùa thu xứ Huế, khí trời chưa lạnh nhưng lòng chúng con se thắt, buồn lạnh hơn mỗi khi tưởng kính đến Hòa Thượng. Hôm nào đây, tại Huế, chúng con nghe tin Hòa Thượng sắp xả báo thân, đêm dài chúng con không ngủ, lo lắng từng phút giây. Thế rồi sự hồi hộp lo âu đó đã đến... Khi điện thoại reo, chúng con nhấc máy lên thì được khẩn tin Hòa Thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch. Từ Cố Đô Huế xa xôi, lòng chúng con thật bàng hoàng thống thiết. Ôi thật là!
08/04/2013(Xem: 14436)
Thế là gần một phần năm thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày vị ân sư của chúng tôi là Hoà thượng Tâm Như Đạo Giám Trí Thủ viên tịch. Đây là một mất mát to lớn không những đối với bản thân những người đã thọ ân Hoà thượng mà còn đối với đạo pháp và dân tộc.
01/04/2013(Xem: 9165)
Đây là tài liệu do cố thi sĩ Bùi Giáng ghi chép ngay trong cuốn sổ tay của chúng tôi vào một buổi trưa ngày mùng 10 tháng 11 năm 1993 tại chùa Pháp Vân, Gia Định, Sàigòn.
29/03/2013(Xem: 8848)
Đức Đại Lão Hòa thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn Chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên. . .
29/03/2013(Xem: 7490)
Trường trung học chưa được cất. Ngoài giờ học, bọn trẻ tha hồ đi rong chơi. Khi lên núi Lăng, khi lên Thạch Động, lúc ra biển Mũi Nai. Mấy đứa con trai rắn mắt, thích cảm giác mạnh thì rủ nhau hái trộm xoài, đặt bẫy, bắn chim hoặc xuống mé biển dưới chân hòn Kim Dự, ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]